Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 10 tháng 6, 2024

NVC41C – Đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta

 

        Chính sách đối ngoại của Đảng ta hiện nay mang tính toàn diện và bao trùm, phù hợp với thực tiễn phát triển của thời đại, với cục diện thế giới, khu vực và môi trường an ninh - đối ngoại, trong đó có việc xác định rõ “đối tác” và “đối tượng” với sự kế thừa và tiếp nối chính sách đối ngoại nhất quán mà Việt Nam tiến hành từ khi bắt đầu đổi mới đến nay.

          Trong giai đoạn hiện nay, trước tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, Đảng ta đã xác định luôn kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng đưa ra định hướng hoạt động đối ngoại, đó là: “Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương... Coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng... Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và đối tác quan trọng khác... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”. Nhìn một cách tổng quát, chính sách đối ngoại của Đảng ta hiện nay là sự kế thừa và tiếp nối chính sách đối ngoại từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, nhất là chính sách đối ngoại được thông qua tại Đại hội XII của Đảng, với chủ trương nhất quán là “đa dạng hóa và đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại”, “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.

          Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã nhận định: “Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế... Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới... Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn”. Thực tế cho thấy, tình hình thế giới, khu vực, nhất là ngay trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á, đã có những diễn biến phức tạp, nguy cơ xung đột vũ trang tăng cao liên quan đến chủ quyền và tranh chấp lãnh thổ, đe dọa đến an ninh khu vực. Không chỉ có vậy, từ khi chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” của Mỹ và sáng kiến “Vành đai và con đường” của Trung Quốc được thực thi, đến nay, khu vực này đã trở thành trọng tâm điều chỉnh chính sách an ninh và đối ngoại của các nước trong và ngoài khu vực. Là một quốc gia nằm ở khu vực địa - chính trị đang có sự cạnh tranh gay gắt và với mạng lưới quan hệ đối ngoại sâu rộng có lợi ích đan xen, Việt Nam chịu những ảnh hưởng và tác động nhất định. Trước tình hình đó, cách tiếp cận và hướng giải quyết mối quan hệ “đối tác” và “đối tượng” trong chính sách đối ngoại của Việt Nam cần tập trung vào hai nội dung:

          Thứ nhất, kiên định nguyên tắc và kiên trì những vấn đề mang tính chiến lược, nhưng khôn khéo và linh hoạt trong sách lược và triển khai thực hiện. “Dĩ bất biến ứng vạn biến” cần luôn là phương châm đối ngoại của Việt Nam trong mọi hoàn cảnh, với mọi vấn đề, giữa Việt Nam và các “đối tác”, trong mối quan hệ chuyển hóa giữa “đối tác” và “đối tượng”.

          Thứ hai, linh hoạt trong cách nhìn nhận “đối tác” và “đối tượng”. Cần tránh quan điểm “nếu không ủng hộ ta thì là kẻ thù của ta”. Trong thực tiễn hoạt động đối ngoại, một mặt, Việt Nam phải luôn tỉnh táo nhận thức rằng “không có đồng minh vĩnh viễn”; mặt khác, cần biết tranh thủ những mặt xung đột của các “đối tượng” để có lợi cho ta. Trong quan hệ quốc tế, điều căn bản nhất đối với mọi quốc gia chính là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc.

          Việc xác định rõ “đối tác” và “đối tượng” trong chính sách đối ngoại của Đại hội XIII của Đảng thể hiện sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Các Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX và Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI, XIII đã nhất quán trong việc xác định “đối tác” và “đối tượng”, là cơ sở để thể chế hóa “đối tác” và “đối tượng” trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong tình hình mới.

          Tóm lại, đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước Việt Nam là đúng đắn, phù hợp. Những thành tựu của chúng ta đạt được từ việc nhất quán thực hiện đường lối, chính sách đó là rất quan trọng, được mọi tầng lớp nhân dân phấn khởi, tự hào và tin tưởng, được các nước trên thế giới đánh giá cao, đã góp phần làm cho đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...