Sau
hơn 35 năm đổi mới, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam đã có sự
phát triển vượt bậc trong bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, quyền dân chủ và
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Điều đó được thể hiện sinh động
trên thực tế và được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Tuy nhiên, với
mưu đồ chính trị, các thế lực thù địch, phản động chẳng những không thừa nhận,
mà còn ra sức chống phá, với những luận điệu xuyên tạc đến mức lố bịch, họ cho
rằng: ở Việt Nam chính quyền “kiểm soát” các hoạt động của tôn giáo và “đàn áp”
các hoạt động của tín đồ.
Việt
Nam là đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời, là quốc gia đa dân tộc, đa tôn
giáo. Có thể nói, tôn giáo ở Việt Nam được ví như bức tranh thu nhỏ của tôn
giáo trên thế giới, từ các hình thức sơ khai, như: Tô tem giáo, Ma thuật giáo,
Saman giáo đến các tôn giáo lớn, được hình thành từ rất sớm, có tổ chức chặt chẽ,
như: Công giáo, Phật giáo, Tin Lành, Hồi giáo,… trong đó có những tôn giáo du
nhập từ bên ngoài, nhưng cũng có nhiều tôn giáo nội sinh, như: Cao Đài, Phật
giáo Hòa Hảo, Thiền phái Trúc Lâm, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Phật giáo Tứ
Ân Hiếu Nghĩa, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, v.v. Loại hình tổ chức của các tôn giáo
cũng đa dạng: có những tôn giáo chỉ có một tổ chức duy nhất (Phật giáo, Công
giáo) và cũng có những tôn giáo có rất nhiều tổ chức khác nhau (Tin Lành, Cao
Đài), v.v. Nếu như nhiều quốc gia thường có một tôn giáo giữ vai trò chủ đạo, ảnh
hưởng sâu rộng trong đời sống chính trị, xã hội, thì ở Việt Nam có nhiều tôn
giáo khác nhau, nhưng cùng tồn tại và bình đẳng về vị thế, không có tôn giáo
nào giữ vai trò chủ đạo, ảnh hưởng quyết định đến đời sống xã hội Việt Nam.
Lợi
dụng đặc điểm đó, các thế lực thù địch, phản động luôn coi vấn đề dân tộc, tôn
giáo là “ngòi nổ” trong mưu đồ chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Họ câu kết với các phần tử cơ hội chính trị, chống đối, cực đoan lợi dụng vấn đề
dân chủ, nhân quyền để chính trị hóa, quốc tế hóa vấn đề tôn giáo, xuyên tạc
tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Ở trong nước, lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của chính quyền một
số địa phương trong thực hiện các chính sách về kinh tế, xã hội, một số chức sắc
tôn giáo có tư tưởng cực đoan bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để lồng
ghép yếu tố chính trị, kích động, gây ra điểm nóng tôn giáo, vu cáo Nhà nước ta
đàn áp tôn giáo, ngăn cấm xây sửa cơ sở thờ tự, cản trở hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo của các chức sắc, chức việc, nhà tu hành, v.v. Ở ngoài nước, một số
nhóm, cá nhân người Việt lưu vong thông qua các trang mạng thường xuyên đăng
tin, bài vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, đàn áp tự do tôn giáo, kích động
nhân dân mà trước hết là tín đồ tôn giáo đấu tranh “đòi tự do tôn giáo”, “nhân
quyền”, kêu gọi các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước lên tiếng can thiệp. Hằng
năm, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ đưa ra các báo
cáo thường niên về tự do tôn giáo trên thế giới, trong đó có nêu một số nội
dung nhận định thiếu khách quan, sai lệch dựa trên những thông tin chưa được kiểm
chứng và không chính xác về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo thực tế tại Việt
Nam. Họ cho rằng: Việt Nam vi phạm các tiêu chuẩn quốc tế khi chính quyền sách
nhiễu các tổ chức tôn giáo ở Tây Nguyên, Tây Bắc và một số khu vực ở Đồng bằng
sông Cửu Long; sách nhiễu những thành viên của các nhóm tôn giáo tham gia vào
các hoạt động vận động nhân quyền hoặc có liên hệ với các cá nhân và tổ chức chỉ
trích chính quyền; cản trở việc thực hành tôn giáo của phạm nhân. Đồng thời,
nêu quan ngại về một số trường hợp “tù nhân lương tâm”, “tù nhân tôn giáo”,...
đưa Việt Nam vào danh sách “Các nước cần theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo -
SWL”. Lợi dụng việc đó, các thế lực thù địch, phản động, chống đối, cơ hội
chính trị “té nước theo mưa”, ra sức xuyên tạc, bóp méo tình hình tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, phê phán chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.
Ngày
09/3/2023, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phối hợp với Ban Tôn giáo Chính phủ
ra mắt “Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam”. Đây là tài liệu
chính thống, kịp thời cung cấp những thông tin cơ bản về tôn giáo, chính sách
tôn giáo ở Việt Nam và những thành tựu, cũng như thách thức của Việt Nam trong
việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; một trong những công cụ chuyển tải
thông tin trung thực tới các nước, các tổ chức quốc tế quan tâm đến lĩnh vực
nhân quyền, tôn giáo, làm cơ sở tham chiếu, chứng minh cho nỗ lực của Việt Nam
trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Qua đó, khẳng định chính
sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
Ngay lập tức một số trang báo điện tử thiếu thiện chí, như: VOA, RFI, RFA,…
cùng nhiều trang mạng của các tổ chức, cá nhân chống đối, cơ hội chính trị đã
có những bài viết, bình luận sai trái, đánh giá tiêu cực về Cuốn sách này. Họ
không chỉ rêu rao việc cho ra đời Cuốn sách là “bức bình phong” nhằm che đậy
các vi phạm kéo dài tại Việt Nam; mà còn tạo ra bức tranh méo mó về vấn đề tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam, khi quy chụp: “Việt Nam không hề có tự
do, và tự do tôn giáo lại càng không. Hàng loạt các vụ đập phá chùa chiền, nhà
thờ để chiếm đất đai, chính quyền cài cắm người vào hàng ngũ tu sĩ để hòng phá
hoại và chia rẽ tôn giáo”(!). Đây là những nhận định lố bịch, mang đầy dã tâm
chính trị hòng chống phá Đảng, Nhà nước và cuộc sống bình yên, hạnh phúc của
nhân dân ta.
Những
thành tựu thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta cho thấy,
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là quan điểm, chính sách xuyên suốt
và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Quan điểm đó được thể hiện trong các văn bản
của Đảng ngay từ khi mới thành lập, nhất là trong công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước đã có nhiều đổi mới mạnh mẽ về công tác tôn giáo được ghi dấu bằng nhiều
nghị quyết, tiêu biểu như: Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX) “Về công tác tôn giáo trong tình hình mới”, Chỉ
thị số 18-CT/TW, ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) về tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, v.v. Trong đó, khẳng
định rõ: tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta; đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; coi trọng
giữ gìn và “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của
tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước”; “Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết
tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
mọi người theo quy định của pháp luật”.
Quan
điểm nhất quán ấy đã được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật và các chính
sách nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thực tế của người dân, phù hợp
với từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Ngay từ Hiến pháp đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa (năm 1946) và các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam sau này, đều khẳng
định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong các quyền cơ bản của con người.
Hiến pháp (năm 2013) ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo”.
Thực
hiện các nguyên tắc đã được hiến định, Nhà nước Việt Nam không ngừng hoàn thiện
hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn
giáo của người dân. Trong đó, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được kỳ họp thứ 2, Quốc
hội (khóa XIV) thông qua ngày 18/11/2016, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2018 là dấu son trong lộ trình cụ thể hóa chủ trương nhất quán của Việt
Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, có ý nghĩa quan trọng cả về đối nội và
đối ngoại, phù hợp với đời sống thực tiễn hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân Việt Nam. Đồng thời, khẳng định với quốc tế rằng, Việt Nam luôn là
thành viên tích cực, có trách nhiệm trong đảm bảo quyền con người, quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo.
Từ
quan điểm đến chính sách và thực tiễn đều minh chứng rằng, Nhà nước Việt Nam
luôn bảo đảm trên thực tế sự đa dạng, hòa hợp, bình đẳng giữa các tôn giáo và
không có sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Việt Nam là quốc
gia đa tín ngưỡng, tôn giáo, trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, Nhà nước
không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; các tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật; mọi công dân đều có quyền tự do lựa chọn theo hoặc không theo
một tín ngưỡng, tôn giáo nào. Người có tín ngưỡng, tín đồ các tôn giáo được tự
do bày tỏ đức tin tại gia đình, cơ sở thờ tự hoặc điểm nhóm hợp pháp. Các tôn
giáo đều chung sống hài hòa, đoàn kết, gắn bó, đồng hành với dân tộc, không có
xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo. Các tôn giáo, chức sắc, chức việc, nhà tu
hành, tín đồ có đóng góp nhất định cho đất nước trên nhiều phương diện của đời
sống xã hội, tích cực tham gia các phong trào xã hội, từ thiện, xóa đói giảm
nghèo, đóng góp thiết thực vào sự phát triển đất nước, là một nhân tố xã hội,
văn hóa tích cực, góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc
sắc.
Nhà
nước luôn bảo đảm và tạo điều kiện để các sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn
giáo của tất cả các tôn giáo được diễn ra bình thường theo quy định pháp luật.
Đặc biệt, những ngày lễ trọng của các tôn giáo, như: lễ Phật đản, lễ Vu lan (của
Phật giáo); lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh (của Công giáo và Tin lành); lễ Hội Yến
Diêu Trì Cung, lễ kỷ niệm ngày khai đạo (của đạo Cao Đài); lễ hội Katê của đồng
bào Chăm; tháng chay Ramadan (của người Hồi giáo),… được tổ chức với quy mô lớn,
thu hút đông đảo tín đồ tham dự.
Sau
khi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2016) đi vào cuộc sống, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đã công nhận 01 tổ chức tôn giáo (Giáo hội Phúc âm Ngũ tuần Việt
Nam), cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 03 tổ chức (Hội thánh Phúc
âm Toàn vẹn Việt Nam; Hội thánh Tin lành Liên hiệp Truyền giáo Việt Nam; Giáo hội
Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê-su Ky-tô Việt Nam). Việc đăng ký sinh hoạt
tôn giáo tập trung trên phạm vi cả nước được tạo điều kiện thuận lợi với gần
4.000 điểm, nhóm được chấp thuận. Các tổ chức tôn giáo hoàn toàn chủ động trong
việc củng cố tổ chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển chức
sắc, chức việc, nhà tu hành theo Hiến chương, Điều lệ và quy định của pháp luật.
Thực
hiện các quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, hằng năm, số lượng chức sắc,
chức việc, nhà tu hành và những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp không ngừng
tăng, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân,
hiện cả nước có hơn 6.500 người được phong phẩm, suy cử làm chức sắc; hơn
16.780 người được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc. Cùng với đó, Nhà
nước còn bảo đảm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo được thành
lập cơ sở đào tạo tôn giáo, mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo. Đến nay,
nước ta đã có trên 60 cơ sở đào tạo tôn giáo tại 38 tỉnh, thành phố. Một số
cơ sở đào tạo của tôn giáo được phép đào tạo trình độ thạc sĩ,
tiến sĩ; các tổ chức tôn giáo đã mở gần 500 lớp bồi dưỡng cho những người
chuyên hoạt động tôn giáo và 230 lớp cho những người hoạt động tôn giáo không
chuyên. Ngoài ra, các tổ chức tôn giáo cũng thường xuyên được quan tâm, tạo điều
kiện thuận lợi trong hoạt động xuất bản kinh sách, ấn phẩm khác về tín ngưỡng,
tôn giáo; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm, đồ dùng tín ngưỡng, tôn
giáo, bảo đảm phục vụ yêu cầu hoạt động. Theo thống kê, từ năm 2018 đến năm
2022, Nhà xuất bản Tôn giáo đã có quyết định xuất bản hơn 2.500 ấn phẩm, với
hơn 8.500.000 bản in, trong đó có nhiều xuất bản phẩm được dịch ra tiếng Anh,
Pháp, tiếng dân tộc; có khoảng 15 tờ báo và tạp chí của các tổ chức tôn giáo
đang hoạt động, trong đó có nhiều tờ báo, tạp chí có uy tín. Bên cạnh đó, các tổ
chức tôn giáo còn tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động; các
tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ còn được Nhà
nước tạo điều kiện cho tham gia các hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài,
như: các hoạt động tôn giáo, khóa đào tạo về tôn giáo ở nước ngoài,
các hội nghị, diễn đàn tôn giáo khu vực và quốc tế, v.v. Các tổ chức
tôn giáo được Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện tham gia vào đời sống chính trị
xã hội, tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa ở tất cả
các cấp từ Trung ương đến cơ sở3 và tích
cực tham gia các hội, đoàn thể khác, như: Hội Người cao tuổi Việt Nam, Hội Bảo
trợ người khuyết tật và trẻ em mồ côi Việt Nam, Hội Liên hiệp thanh niên Việt
Nam, v.v. Đây là những minh chứng thực tiễn sinh động, chân thực, trái ngược với
luận điệu quy chụp, xuyên tạc, lố bịch, rằng: “Việt Nam không hề có tự do, và tự
do tôn giáo lại càng không”.
Quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam và
của đồng bào các dân tộc thiểu số luôn được Đảng, Nhà nước ta tôn trọng và bảo
đảm. Với số lượng người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam ngày càng
tăng, trong đó có một bộ phận là tín đồ tôn giáo, chính quyền các cấp đã quan
tâm, tạo điều kiện cho người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo theo quy định của
pháp luật Việt Nam. Hiện nay, có 67 điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của
người nước ngoài cư trú hợp pháp trên cả nước.
Việt
Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống (có 53 dân tộc
thiểu số, với gần 14 triệu người, chiếm khoảng 14,3% dân số cả nước); nhu cầu
chính đáng về tín ngưỡng, tôn giáo luôn được các cấp chính quyền quan tâm hướng
dẫn, giải quyết, tiêu biểu, như: cộng đồng dân tộc Chăm theo Hồi giáo và đạo Bà
la môn được thành lập Ban đại diện cộng đồng để hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo; Giáo
hội Phật giáo Việt Nam xây dựng Học viện Phật giáo Nam tông Khmer để đáp ứng
nhu cầu đào tạo tu sĩ Phật giáo Nam tông Khmer; kinh sách của các tổ chức tôn
giáo đã được xuất bản bằng 13 thứ tiếng dân tộc; hàng nghìn điểm, nhóm và chi hội
Tin lành của người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, khu vực miền núi phía Bắc được
cấp sinh hoạt tôn giáo tập trung; tín đồ tôn giáo là người dân tộc thiểu số được
tham gia hoạt động quốc tế, v.v. Tính đến tháng 12/2021, cả nước có trên 3.300
điểm, nhóm Tin lành được cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung; trong đó,
các tỉnh miền núi phía Bắc có gần 1.650 điểm, nhóm, các tỉnh Tây Nguyên và Bình
Phước có gần 1.750 điểm, nhóm.
Đặc
biệt, khi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2016) đi vào cuộc sống, những quy định
về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân được đảm bảo đầy đủ hơn, các
quy định trong Luật đã tiếp cận gần hơn với các công ước quốc tế. Chính vì vậy,
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đối với người chấp hành án phạt tù luôn được
Nhà nước bảo đảm.
Hiện
nay, tại thư viện của 54 trại giam, đã có 17 đầu sách liên quan đến tôn giáo với
gần 4.500 cuốn được đưa vào sử dụng. Việc đưa kinh sách vào trại giam đã góp phần
thực thi pháp luật về quyền tín ngưỡng, tôn giáo, quyền được tiếp cận kinh
sách, ấn phẩm tôn giáo của mọi người, thể hiện chính sách nhất quán của Việt
Nam trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, những nỗ lực của Việt
Nam trong thực thi các công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị, quyền con
người. Đó chính là minh chứng sống động,
hoàn toàn bác bỏ sự nhìn nhận phiến diện, thiếu khách quan, khi quy chụp:
“Việt Nam vi phạm các tiêu chuẩn quốc tế, cản trở việc thực hành tôn giáo của
phạm nhân”.
Các
tổ chức tôn giáo cũng luôn được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện tham gia
các hoạt động an sinh xã hội, nhất là trong lĩnh vực giáo dục, y tế, và hoạt động
từ thiện nhân đạo, bảo trợ xã hội. Những năm qua, các tổ chức tôn giáo đã chi
hàng nghìn tỷ đồng cho hoạt động của các cơ sở giáo dục, cơ sở y tế, cơ sở bảo
trợ xã hội và các hoạt động từ thiện nhân đạo, đồng thời tích cực tham gia cùng
chính quyền địa phương trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh.
Trong
lĩnh vực giáo dục, cả nước đã có khoảng 300 trường và 2.000 cơ sở giáo dục mầm
non, 12 cơ sở dạy nghề do các tổ chức tôn giáo thực hiện. Bên cạnh đó, nhiều tổ
chức tôn giáo đã thành lập các đội tình nguyện hỗ trợ xóa mù chữ cho trẻ em
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; lập chi hội khuyến học, khuyến tài hỗ trợ
cho học sinh nghèo hiếu học, xây dựng lưu xá, tiếp sức mùa thi, v.v. Trong lĩnh
vực y tế, cả nước có trên 500 cơ sở y tế, phòng khám chữa bệnh từ thiện do các
tổ chức tôn giáo thành lập dưới nhiều hình thức. Kinh phí tổ chức do tổ chức,
cá nhân tôn giáo đóng góp để thực hiện các hoạt động này mỗi năm lên tới hàng
chục tỉ đồng; thành lập các đoàn khám, chữa bệnh lưu động, phát thuốc miễn phí
cho người nghèo. Các phòng khám, chữa bệnh của các tổ chức tôn giáo đã và đang
hoạt động hiệu quả, góp phần cùng chính quyền địa phương chăm lo sức khỏe và
lan tỏa tinh thần yêu thương trong cộng đồng. Trong các hoạt động từ thiện nhân
đạo, bảo trợ xã hội, hiện nay, cả nước có 113 cơ sở trợ giúp xã hội thuộc các tổ
chức Phật giáo, Công giáo, Cao Đài được cấp phép hoạt động, đang chăm sóc, nuôi
dưỡng 11.800 đối tượng bảo trợ xã hội.
Vấn
đề đất đai liên quan đến tôn giáo luôn được Nhà nước quan tâm giải quyết thấu
đáo. Căn cứ vào nhu cầu của các tổ chức tôn giáo, quỹ đất của địa phương và
theo quy định của pháp luật, chính quyền các địa phương luôn tạo điều kiện cấp
đất cho các cơ sở, tổ chức tôn giáo; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi
cho các tổ chức tôn giáo sửa chữa, cải tạo và xây dựng mới cơ sở tôn giáo.
Hoàn toàn không hề có hiện tượng chính quyền đập phá chùa chiền, nhà thờ để chiếm
đất đai, hòng phá hoại và chia rẽ tôn giáo, như những luận điệu xuyên tạc mà các
thế lực thù địch, cơ hội chính trị rêu rao.
Cùng
với những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới đất nước, hoạt động và đời
sống tôn giáo ở Việt Nam có sự phát triển tích cực: từ sinh hoạt tôn giáo của
tín đồ đến hoạt động của chức sắc và các tổ chức tôn giáo; sự gia tăng số lượng
chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo; nhiều hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
diễn ra với quy mô lớn hơn trước thu hút đông đảo tín đồ và người dân tham dự;
các tổ chức tôn giáo được công nhận xây dựng và thực hiện đường hướng hành đạo
phù hợp với văn hóa truyền thống, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Các hoạt động
tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của đông đảo
quần chúng nhân dân và có những đóng góp tích cực vào đời sống tinh thần của
toàn xã hội. Điều đó minh chứng cho chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng,
Nhà nước Việt Nam về đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là hoàn toàn đúng
đắn, phù hợp với xu thế của thời đại; tạo được lòng tin của chức sắc, tín đồ
vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, khơi dậy những đóng góp tích
cực của các tôn giáo vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đến nay, Việt
Nam đã hai lần được tín nhiệm bầu vào Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc các
nhiệm kỳ 2014 - 2016 và 2023 - 2025 là minh chứng thực tế sự thừa nhận rộng rãi
của cộng đồng quốc tế về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam và đó cũng chính là minh chứng
thuyết phục nhất, đanh thép nhất bác bỏ những luận điệu của các thế lực thù địch,
phản động luôn tìm cách quy chụp phiến diện, phủ nhận, xuyên tạc một cách lố bịch
về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét