Hiện nay trên các trang mạng, các diễn dàn kinh tế không
chính thống xuất hiện các quan điểm cho rằng: “Các quan chức cộng sản ở Việt Nam… đã đánh đổi môi
trường lấy kinh tế”. Nguy hiểm hơn, các bài viết còn trắng trợn nhận định và quy kết vô căn cứ: “Hậu quả là một
mai khi chế độ độc tài toàn trị do đảng cộng sản cai trị sụp đổ thì đất nước
này, dân tộc này chỉ còn lại một bãi Rác và một đống Nợ”. Qua đây cho thấy, mục
tiêu cuối cùng của luận điệu xuyên tạc, thù địch này là hòng làm giảm uy tín
của Đảng thông qua lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường (BVMT) và hòng xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Trước hết, phải khẳng định rằng, môi trường và vấn đề
BVMT luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm. Trong các Văn kiện Đại hội
Đảng thời kỳ đổi mới, Đảng ta cũng luôn dành dung lượng xứng đáng để chỉ
đạo công tác BVMT, gắn BVMT với phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, Đảng
cũng đã ban hành một số Nghị quyết chuyên đề chỉ đạo việc BVMT như: Nghị quyết
41-NQ/TW, ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Nghị quyết số 09-NQ/TW, tháng 2/2007 của Hội
nghị Trung ương 4 Khóa X về Chiến lược Biển Việt Nam đến
năm 2020, Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 3/6/2013 của Hội nghị
Trung ương 7 Khóa XI về Chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường… Mới
đây, trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng chỉ rõ mục tiêu của bảo
vệ môi trường ở Việt Nam trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là: “bảo đảm
môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải
để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại
môi trường”.Thứ hai, Điều 43, Hiến pháp năm 2013 của Việt
Nam đã khẳng định: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong
lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Quốc hội Việt Nam cũng đã xây dựng hệ
thống văn bản pháp luật về BVMT khá đầy đủ và đồng bộ. Tính đến nay, các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền ở nước ta đã ban hành gần 600 văn bản có liên quan
đến BVMT. Sau Luật Bảo vệ môi trường năm 1993, hàng loạt các văn bản Luật liên
quan đến BVMT cũng được ban hành như: Luật Khoáng sản năm 1996; Luật Bảo vệ và
phát triển rừng năm 2004; Luật Thủy sản năm 2003; Luật Đất đai năm 2003; đặc
biệt là Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 sửa đổi và Luật Bảo vệ môi trường năm
2020 cùng các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật. Đây là cơ sở pháp lý nhằm BVMT
trong từng dự án phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, Chính phủ Việt Nam triển khai và thực hiện
quyết liệt các chương trình, kế hoạch về BVMT. Ngay
từ năm 1991, khi nền kinh tế còn rất khó khăn, nhưng Việt Nam đã thông qua “Kế
hoạch quốc gia về môi trường và phát triển lâu bền 1991-2000”. Năm 1992, Đoàn đại
biểu Chính phủ Việt Nam tham dự Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và
Phát triển ở Rio de Janero (Braxin) đã ký Tuyên bố chung của thế giới về môi
trường Chương trình Nghị sự 21 toàn cầu, trên cơ sở đó cam kết
xây dựng Chiến lược phát triển bền vững quốc gia và chương trình nghị sự 21
địa phương; Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg về Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020; Quyết định số 622/QĐ-TTg về Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình Nghị sự 2030 vì
sự phát triển bền vững. Sau gần 5 năm thực hiện chương trình
nghị sự 2030, thứ hạng của Việt Nam về chỉ số phát triển bền vững liên tục tăng
lên và xếp thứ 49/166 quốc gia xếp hạng vào năm 2020. Cuối tháng 10, đầu tháng
11/2021, Chính phủ Việt Nam đã tham dự Hội nghị COP26 tại Glassgow (Scotland,
Vương quốc Anh). Tại Hội nghị, Việt Nam đã tiên phong trong bảo vệ môi trường
khi cam kết giảm phát thải ròng về 0 vào năm 2050, giảm 30% lượng phát thải khí
metan gây hiệu ứng nhà kính vào năm 2030.
Thứ tư, việc thực hiện chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường ở
Việt Nam thời gian qua đã thu được nhiều thành tựu, đó là: “Hệ thống chính
sách, pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi
trường và thích ứng với biến đổi khí hậu được tiếp tục hoàn
thiện và tập trung chỉ đạo thực hiện hiệu quả… Chủ động triển khai thực hiên
Chương trình quốc gia và nhiều giải pháp về ứng phó với biến đổi khí hậu,
phòng, chống thiên tai đạt hiệu quả bước đầu… Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu được đẩy mạnh”.
Bên cạnh đó, Việt Nam
đã “Triển khai Chương trình mục tiêu ứng phó với bảo vệ môi trường và tăng
trưởng xanh, chủ động cam kết giảm thiểu phát thải nhà kính. Đã xây dựng Chương
trình cập nhật phân vùng rủi ro thiên tai, lập bản đồ cảnh báo thiên tai, đặc biệt
là các thiên tai liên quan đến bão, nước biển dâng, lũ quét, sạt lở đất, hạn
hán, xâm nhập mặn và Đề án phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi
khí hậu”. Đây là những kết quả thiết thực, đáng khích
lệ trong công tác BVMT.
Những kết quả cả về lý
luận và thực tiễn BVMT của Việt Nam nêu trên đã làm sáng rõ quan điểm về BVMT
và quyết tâm chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam là: “lấy bảo vệ môi trường
sống và sức khỏe nhân dân là mục tiêu hàng đầu”; đây cũng là bằng chứng thuyết
phục nhất phản bác những luận điệu xuyên tạc cho rằng Việt Nam không quan tâm
tới BVMT, không chú ý tới môi trường sống của người dân, là “đánh đổi môi
trường lấy kinh tế”…
Trong thời gian tới,
để có môi trường sống trong lành, chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam là:
“xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”; đồng
thời, “Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa
dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng
cao chất lượng trồng rừng”; “Có kế hoạch khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại,
làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản
xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị”; “Chủ động, tích cực hợp tác quốc tế
trong việc chia sẻ thông tin”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét