Các
thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị luôn dùng mọi âm mưu, thủ đoạn biến
tôn giáo thành “ngòi nổ” để xuyên tạc, kích động, gây mất ổn định chính trị –
xã hội, phá hoại tư tưởng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá Đảng,
Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thời gian gần đây, các phần tử có tư
tưởng dân tộc hẹp hòi, cực đoan trong và ngoài nước đã lợi dụng bản “Tuyên ngôn
về quyền của các dân tộc bản địa” của Liên hợp quốc để vận động các quốc gia
phương Tây, các tổ chức quốc tế công nhận ở Việt Nam có “dân tộc bản địa”. Đồng
thời, kích động các dân tộc thiểu số, nhất là người Thượng ở Tây Nguyên đòi
quyền tự quyết. Điển hình là trên trang Quyenduocbiet, BPSOS, viết: “Người
Thượng là Dân Tộc Bản Địa và phải được công nhận như vậy”, cho rằng, người Thượng và
người Hmong theo đạo Cơ đốc, người, người Chăm theo đạo Hồi và người Khmer Krom
theo đạo Phật, người thiểu số, nhất là người Thượng ở Tây Nguyên Việt Nam là
“người bản địa”. Vì vậy, BPSOS kêu gọi Liên hợp quốc yêu cầu Việt Nam công nhận
điều này và không được phân biệt đối xử, bỏ rơi người bản địa. Đây thật sự là
hành động nhằm gây mất ổn định chính trị – xã hội, chia rẽ, phá hoại khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, đi tới phá vỡ sự toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước
của dân tộc ta.
Đảng,
Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chủ trương tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tôn
giáo và thực hiện đoàn kết tôn giáo; chống vi phạm quyền tự do tôn giáo dưới mọi
hình thức. Điều 24, Hiến pháp năm 2013 quy định: “ Mọi người có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”.
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 ghi rõ: Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc
cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ
dân tộc. Nhà nước thực hiện chính sách về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số. Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa xã
hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số là sự nghiệp chung của nhân dân
cả nước, của nhân dân các dân tộc không phân biệt là dân tộc đa số hay thiểu
số. Vì lợi ích trực tiếp của nhân dân các dân tộc thiểu số, đồng thời, vì lợi
ích chung của cả nước, các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng tiến bộ là một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta đang xây dựng. Chính sách dân tộc thể hiện mục tiêu, lý tưởng cách mạng
của Đảng. Thực hiện chính sách dân tộc là trách nhiệm chính trị của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội. Vì vậy, phải tập trung hoàn thiện và triển khai thực
hiện tốt các chính sách dân tộc; có những chính sách đặc thù giải quyết khó
khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đại đoàn kết toàn dân tộc.
Như vậy, không bao giờ có chuyện phân biệt, kỳ thị, ngược đãi, bỏ rơi người dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
Cần hiểu rằng, khái niệm “người
bản địa” có nguồn gốc lịch sử, gắn liền với thời kỳ chủ nghĩa thực dân, đế
quốc tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược, áp đặt sự thống trị của họ ở các
quốc gia chậm phát triển. Chiến lược di dân, khai thác thuộc địa của họ đã dẫn
đến sự phân hoá, hình thành 2 nhóm hay 2 tầng lớp xã hội ở những quốc gia
này: Nhóm thứ nhất, là tầng lớp những người nước ngoài, bao gồm “các
quan cai trị” cùng với những người di cư đến đây làm ăn họ có mối quan hệ mật
thiết với bộ máy cai trị của thực dân, tầng lớp này thuộc đẳng cấp có nhiều đặc
quyền, đặc lợi. Nhóm thứ hai, là cộng đồng những người dân thuộc địa còn
lại được gọi là những “người bản địa” hoặc “người bản xứ”, thuộc đẳng cấp
thấp hèn. Ở Việt Nam, dưới sự cai trị của thực dân Pháp, 54 tộc người trong
cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam đều được gọi chung là những tên An-nam-mít
(Annammit) với nghĩa miệt thị, khinh bỉ đều được coi là người bản địa. Như vậy
là, khái niệm “người bản địa” chỉ mới ra đời ở Việt Nam từ khi Việt Nam trở
thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân và nó chỉ tồn tại dưới chế độ đó. Song,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nước Việt Nam đã giành
được độc lập, thống nhất đất nước, nhà nước Việt Nam là Nhà nước của tất cả các
dân tộc Việt Nam, thì khái niệm “người bản địa” và “quyền của người bản
địa” đã lùi về quá khứ. Thay cho khái niệm đó là khái niệm “quyền
công dân” – là quyền của tất cả mọi người dânViệt Nam, không phân biệt họ là
dân tộc thiểu số hay đa số. Đó là một sự thật lịch sử, không ai có thể bác bỏ
được.
Hiến chương Liên hợp quốc khẳng định:
Chủ thể của quyền dân tộc tự quyết là quốc gia – dân tộc chứ không phải là một
dân tộc thiểu số trong quốc gia – dân tộc đó. Pháp luật quốc tế không công nhận
một dân tộc thiểu số ở một quốc gia được ly khai, được thành lập một quốc gia
độc lập với quốc gia được quốc tế công nhận mà họ là công dân trong quốc gia
đó. Như vậy, quyền tự quyết của tộc người trong một quốc gia – dân tộc không
được phép vượt ra ngoai khuôn khổ quyền dân tộc tự quyết, không được xâm phạm
quyền của cả quốc gia – dân tộc. Những đòi hỏi về quyền tự quyết mà các thế lực
thù địch lợi dụng “Tuyên ngôn về quyền của người bản địa” chẳng những vi phạm
Hiến pháp, phát luật Việt Nam, mà còn trái với Hiến chương Liên hợp quốc và
Luật quốc tế về quyền con người. Về bản chất, những đòi hỏi này là một thủ
đoạn chính trị nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch, nhằm phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, hoàn toàn không phải
vì lợi ích của đồng bào các dân tộc thiểu số. Tuyên ngôn về quyền của người bản
địa là một văn kiện rất đáng trân trọng. Song, chúng ta cần tỉnh táo, bảo vệ
những giá trị cao quý của nó, đồng thời không để cho các thế lực thù địch, phản
động xuyên tạc, lợi dụng, phục vụ cho những mưu đồ xấu xa, thâm độc của họ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét