Gần 30 năm qua kể từ khi Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 12-7-1995; xác lập quan hệ đối tác toàn diện vào ngày 25-7-2013, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã đạt những bước phát triển toàn diện, thực chất, ngày càng đi vào chiều sâu, đóng góp tích cực cho an ninh, hòa bình, hợp tác, phát triển tại khu vực và trên thế giới. Ngày 10-9-2023, hai nước chính thức nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững
Việt Nam
và Hoa Kỳ đã có mối quan hệ bang giao gần 300 năm qua, kể từ giai đoạn đầu Hợp
chúng quốc Hoa Kỳ được thành lập (năm 1776). Vào những năm 1784 - 1789, Đại sứ
Hoa Kỳ ở Pháp Thomas Jefferson đã liên hệ với triều Nguyễn để xin giống lúa
thơm xứ Nam Kỳ về trồng tại quê hương. Ông cũng là người chấp bút bản Tuyên
ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và sau này trở thành Tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ. Tiếp
đó, năm 1803, thuyền trưởng John Briggs là người Mỹ đầu tiên đưa tàu mang quốc
kỳ Hoa Kỳ tới Việt Nam. Năm 1832, Phái bộ Ngoại giao của Chính phủ Hoa Kỳ chính
thức tới Đại Nam. Sử sách Việt Nam cũng ghi lại dấu ấn bang giao chính thức đầu
tiên giữa hai nước khi vua Tự Đức cử Bùi Viện hai lần sang Hoa Kỳ thực hiện sứ
mệnh ngoại giao vào giai đoạn 1873 - 1875... Hơn nửa thế kỷ sau đó, mối quan hệ
bang giao giữa hai nước chủ yếu thông qua Pháp khi Việt Nam trở thành nước
thuộc địa nửa phong kiến dưới sự đô hộ của thực dân Pháp.
Chủ tịch
Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Trong
hành trình ra đi tìm đường cứu nước, Người đã bôn ba nhiều quốc gia trên thế
giới, nhất là các nước lớn, sau này là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc. Tại Mỹ, Người đã có thời gian sinh sống và làm việc ở nhiều
thành phố, như New York, Boston. Trong những năm tháng tại đây, với góc nhìn
biện chứng, khách quan về Mỹ, Người thấu hiểu những giá trị tốt đẹp của nhân
dân Mỹ với công cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như những mặt trái của giai
cấp tư sản Mỹ.
Năm 1941,
sau khi trở về nước lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh chủ trương làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ. Dưới sự chỉ đạo của
Người, Mặt trận Việt Minh đã liên hệ với Cơ quan Dịch vụ Chiến lược Hoa Kỳ
(Office of Strategic Services - OSS, tiền thân của Cơ quan Tình báo Trung ương
Hoa Kỳ - CIA) để cùng chống phát-xít và nhận được nhiều sự hỗ trợ của tổ chức
này trong giai đoạn trước năm 1945. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công,
ngày 17-10-1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt - Mỹ thân
hữu Hội đã được thành lập, được coi là hội hữu nghị song phương đầu tiên của
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thông điệp, thư, điện đến Tổng
thống và Ngoại trưởng Mỹ, dành thời gian tiếp trao đổi với các sĩ quan Mỹ ở Thủ
đô Hà Nội để chuyển thành ý của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
tới Chính phủ Mỹ. Ngày 16-2-1946, trong thư gửi Tổng thống Mỹ Harry Truman, Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết: “Mục tiêu của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác
toàn diện với Hoa Kỳ. Chúng tôi sẽ làm hết sức mình để làm cho nền độc lập và
sự hợp tác này trở nên có lợi cho toàn thế giới”. Tuy nhiên sau đó, hai
nước đã trải qua cuộc chiến tranh kéo dài hơn 20 năm bởi sự can dự của Mỹ với
tư tưởng đế quốc bá quyền cùng những tính toán cạnh tranh nước lớn.
Trong
giai đoạn khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh không ngần ngại tuyên bố: “Tôi kính trọng nhân dân Mỹ. Chúng tôi chìa bàn
tay hữu nghị với bất kỳ quốc gia nào thừa nhận Việt Nam là một nước tự do và
độc lập” . Nêu cao tính chính nghĩa của sự nghiệp đấu tranh cách mạng,
Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của bạn bè quốc tế. Tại Mỹ, đã có
hàng trăm cuộc biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam, với sự tham gia của
hàng chục vạn người dân Mỹ tiến bộ.
Nhìn lại
lịch sử, tháng 3-1966, Thượng nghị sĩ Mỹ William Fulbright đã bày tỏ: “Cuộc
chiến tranh ở Việt Nam làm cho nước Mỹ yếu đi. Nó là một gánh nặng lớn cho nước
Mỹ và tôi thấy chúng ta không thể nào tiến hành chiến tranh mà không phải trả
bằng một giá rất cao” . Một số học giả Mỹ cho rằng, nếu Tổng thống Mỹ John
F. Kennedy không bị ám sát, Mỹ sẽ có thể rút quân đội khỏi Việt Nam trong hòa
bình . Còn Tổng thống Mỹ Richard Nixon trong cuốn hồi ký “No more
Vietnam”, đã khẳng định thuyết domino áp dụng tại Việt Nam là một “sai lầm
nghiêm trọng”, đẩy Mỹ vào những cuộc chiến tranh vô ích trong thế kỷ
XX ...
Mặc dù
hơn nửa thế kỷ sau, nguyện vọng “hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh mới được hiện thực hóa, nhưng những nỗ lực không ngừng nghỉ của Người
là minh chứng rõ nét về đường lối đối ngoại của Việt Nam muốn “làm bạn với tất
cả các nước” trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng,
cùng có lợi.
Từ
nỗ lực khắc phục hậu quả chiến tranh, hàn gắn, hòa giải đến bình thường hóa
quan hệ, thiết lập đối tác toàn diện
Việc ký
kết thành công Hiệp định Paris vào ngày 27-1-1973 là một bước ngoặt quan trọng
để kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Tuy nhiên, hậu quả chiến
tranh để lại vô cùng to lớn. Trong hơn hai thập niên sau đó, hai nước đã phải
trải qua những giai đoạn thăng trầm để tiến tới bình thường hóa quan hệ.
Trong
tiến trình bình thường hóa quan hệ, hợp tác khắc phục hậu quả chiến
tranh đã trở thành một nền tảng quan trọng, đóng góp vào quá trình hòa
giải, hàn gắn và xây dựng lòng tin giữa hai nước, tạo ra những cơ hội hợp tác
mới trên những lĩnh vực quan trọng khác. Chỉ hai tuần sau khi Hiệp định Paris
được ký kết, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành lập cơ quan Việt Nam tìm
kiếm người mất tích (VNOSMP) để chủ trì giải quyết vấn đề nhân đạo tìm kiếm
quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh Việt Nam (MIA). Bên cạnh kênh Nhà
nước, những chủ thể khác, như kênh Đảng, các cựu chiến binh, doanh nghiệp,
người dân của hai nước đã góp phần quan trọng vào quá trình hòa giải, hàn gắn
để đi đến bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.
Kể từ năm
1986, sau khi Đảng ta đề ra đường lối đổi mới với chính sách đối ngoại độc lập,
tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ quốc tế, hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ ngày càng phát triển, tạo điều
kiện thuận lợi để hai bên tăng cường lòng tin và mở rộng hợp tác trên nhiều
lĩnh vực. Ngày 11-7-1995, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ bước sang trang sử mới khi
Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt và Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton chính thức
tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ. Từ đây mở ra
giai đoạn hợp tác mới giữa hai nước trên tinh thần “gác lại quá khứ, vượt qua
khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai”.
Giai đoạn
1995 - 2013 chứng kiến những bước phát triển vượt bậc và toàn diện trong quan
hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Tuyên bố về Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ được ký
kết vào năm 2013 đã tạo lập khuôn khổ quan hệ cho hai nước, khẳng định xu thế
phát triển tất yếu của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, đồng thời tạo nền tảng vững
chắc cho sự phát triển của quan hệ song phương những năm tiếp theo. Hai nước
cam kết hợp tác toàn diện trên chín lĩnh vực chủ chốt, bao gồm: chính trị -
ngoại giao, thương mại - kinh tế, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, môi
trường, y tế, giải quyết hậu quả chiến tranh, quốc phòng - an ninh, bảo vệ và
thúc đẩy quyền con người, văn hóa - thể thao - du lịch. Hai bên nhấn mạnh các
nguyên tắc trong quan hệ đối tác toàn diện trên cơ sở tôn trọng luật pháp
quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc, cũng như độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và thể chế chính trị của nhau. Đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ khẳng định
tôn trọng thể chế chính trị của Việt Nam.
Bước tiến
quan trọng tiếp theo trong quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ được ghi
nhận vào năm 2015, khi lòng tin chiến lược giữa hai nước thực sự được thúc đẩy
thông qua chuyến thăm lịch sử của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Hoa Kỳ nhân
dịp hai nước kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ. Chuyến thăm có ý nghĩa
quan trọng đối với quan hệ song phương, vừa là sự tiếp nối con đường Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đi, vừa đánh dấu sự hoàn tất một chương sử hai bên bình thường
hóa hoàn toàn quan hệ, theo tinh thần “hợp tác đầy đủ”, như ý nguyện của Bác,
đồng thời mở ra một chương sử mới của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Chuyến
thăm còn là minh chứng điển hình cho bước phát triển và sức mạnh tổng thể của
nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại với ba trụ cột: đối ngoại đảng,
ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân.
Với những
nền tảng vững chắc đó, quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ ngày càng đi
vào chiều sâu, hiệu quả và thực chất trên tất cả các lĩnh vực và ở bình diện
song phương, khu vực, quốc tế.
Về
chính trị - ngoại giao, sự hiểu biết và tôn trọng
lẫn nhau đã tăng lên rõ rệt thông qua việc hai bên thường xuyên duy trì trao
đổi đoàn và tiếp xúc cấp cao. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và nhiều đồng chí
lãnh đạo cấp cao của Việt Nam đã tiến hành thăm Hoa Kỳ. Kể từ khi hai nước
chính thức bình thường hóa quan hệ vào năm 1995, tất cả các Tổng thống Hoa Kỳ
đều đã sang thăm Việt Nam. Nổi bật nhất trong 10 năm qua là các chuyến thăm
Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama (tháng 5-2016), Tổng thống Donald
Trump (tháng 11-2017, tháng 2-2019) và Tổng thống Joe Biden (tháng 9-2023); các
chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng
(tháng 7-2015), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc (tháng 5-2017), Thủ tướng
Chính phủ Phạm Minh Chính (tháng 5-2022).
Ảnh 2. Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh
Chính với các doanh nghiệp của Hội đồng kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN
Hợp
tác kinh tế - thương mại là lĩnh vực hợp tác thành công
nhất, trở thành trọng tâm, nền tảng, động lực phát triển cho quan hệ chung giữa
hai nước. Kim ngạch thương mại song phương tăng hơn 5 lần trong vòng 10 năm
qua, từ 25 tỷ USD (năm 2012) lên gần 139 tỷ USD (năm 2022) và tăng hơn 300 lần
so với năm 1995 (450 triệu USD) khi hai nước bình thường hóa quan hệ. Việt Nam
đã vươn lên vị trí đối tác thương mại lớn thứ bảy của Hoa Kỳ trên toàn thế giới
từ năm 2019. Đặc biệt, từ một nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) có kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ thuộc loại thấp nhất, năm 2014, Việt Nam
đã vươn lên dẫn đầu các nước ASEAN về xuất khẩu vào Mỹ. Hiện nay, Hoa Kỳ trở
thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, đồng thời là thị trường duy
nhất và đầu tiên vượt ngưỡng 100 tỷ USD trong xuất khẩu của Việt Nam .
Về
giáo dục - đào tạo, giao lưu nhân dân, hằng
năm, có từ 23.000 sinh viên đến 25.000 sinh viên Việt Nam theo học tại Hoa Kỳ,
đưa Việt Nam trở thành nước đứng đầu khu vực Đông Nam Á và đứng thứ năm trên
thế giới về số lượng sinh viên theo học ở Hoa Kỳ. Đáng chú ý, số lượng đã
tăng liên tục trong 18 năm, riêng trong 10 năm triển khai đối tác toàn diện, số
lượng sinh viên Việt Nam theo học tại Hoa Kỳ đã tăng từ hơn 16.000 sinh viên
(năm 2013) đến mức cao nhất gần 25.000 sinh viên (năm 2020). Nhiều địa phương
của Việt Nam đã và đang chủ động xây dựng các mối quan hệ, các dự án hợp tác
với các thành phố, quận, bang ở Hoa Kỳ. Khách du lịch Hoa Kỳ duy trì trong tốp
5 số lượt khách quốc tế đến Việt Nam.
Hợp
tác khắc phục hậu quả chiến tranh tiếp tục là ưu tiên
cao và đạt nhiều kết quả cụ thể. Hai bên dành nhiều nguồn lực và đẩy mạnh các
hoạt động tìm kiếm, xác minh hài cốt của bộ đội Việt Nam hy sinh trong chiến
tranh, tẩy độc dioxin, rà phá bom mìn còn sót lại, hỗ trợ người khuyết
tật, những người bị ảnh hưởng chất độc da cam. Các cơ quan Việt Nam đã phối hợp
cùng phía Hoa Kỳ tìm kiếm, xác định và trao trả cho phía Hoa Kỳ hài cốt của 733
quân nhân mất tích.
Về
hợp tác trong các thể chế đa phương, hai nước đã thúc đẩy
trao đổi và ủng hộ lẫn nhau trong khuôn khổ Đối tác chiến lược toàn diện ASEAN
- Hoa Kỳ, tại Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), cũng
như phối hợp giải quyết các vấn đề toàn cầu. Việt Nam và Hoa Kỳ cùng chia sẻ
tầm nhìn về thúc đẩy vai trò tích cực của các thể chế đa phương trong khu vực,
như ASEAN, Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Sáng kiến Hạ nguồn sông Mekong,…
Tuy nhiên,
quan hệ giữa hai nước vẫn còn tồn tại một số khác biệt. Hai bên có lập trường
và cách đề cập khác nhau liên quan đến vấn đề dân chủ, nhân quyền do xuất phát
từ sự khác biệt về hệ thống chính trị - xã hội, văn hóa, lịch sử, truyền thống,
tập quán, trình độ phát triển. Mặc dù có những lợi ích và mối quan tâm chung,
nhưng cũng có những vấn đề phức tạp, vấn đề mới cả về song phương và toàn cầu
mà hai bên chưa có quan điểm và cách tiếp cận tương đồng. Vấn đề khắc phục hậu
quả chiến tranh vẫn cần tiếp tục được thúc đẩy. “Hội chứng chiến tranh” vẫn còn
tồn tại trong đời sống chính trị ở Hoa Kỳ, một bộ phận nhỏ người Mỹ gốc Việt
vẫn còn lưu giữ những tư tưởng gây chia rẽ, đối đầu. Thêm nữa, môi trường quốc
tế, khu vực diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp và khó lường.
Thẳng
thắn nhìn vào sự thật, không chủ quan, lơ là, song có thể thấy, những rào cản
và trở ngại trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ thời gian qua đã dần được tháo gỡ
trên cơ sở khuôn khổ quan hệ đối tác toàn diện, thiện chí, chân thành, tôn
trọng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị của
nhau. Phương châm đặc thù cho sự phát triển quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ là “gác
lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai”
Tiếp
tục đưa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ bước sang giai đoạn mới vì hòa bình, hợp tác
và phát triển bền vững
Văn kiện
Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song
phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện
và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin
cậy” (18). Chủ trương này được đặt trong tổng thể chính sách
đối ngoại của Việt Nam là độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa,
hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.
Đưa quan
hệ đối ngoại đi vào chiều sâu có thể được hiểu theo cách đơn giản nhất là tăng
kết quả, nâng cao hiệu quả thiết thực của hoạt động đối ngoại và thêm lượng,
tăng chất cho quan hệ đối ngoại. Mục đích cốt lõi của việc đưa quan hệ đối
ngoại đi vào chiều sâu là thúc đẩy quan hệ đối ngoại không ngừng phát triển
mạnh mẽ, hiệu quả thiết thực đối với tất cả các bên liên quan. Qua đó, các mối
quan hệ đối ngoại ngày càng thêm ổn định và bền vững, tránh nguy cơ quan hệ đối
ngoại rơi vào tình trạng trì trệ, lợi ích chiến lược cơ bản chung không ngừng
được củng cố và sự tin cậy lẫn nhau tiếp tục thêm vững chắc.
Trên thực
tế, việc phát triển các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam đều được tiến hành
từng bước, trên cơ sở phù hợp với lợi ích chính đáng của các bên và thực tiễn
xu thế quan hệ song phương, từ đối tác toàn diện đến đối tác chiến lược và đối
tác chiến lược toàn diện. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao chính thức
với 192 quốc gia (bao gồm 190/193 nước thành viên Liên hợp quốc); nâng cấp quan
hệ và tạo ra mạng lưới đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 33 nước, bao
gồm tất cả các nước lớn. Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247
chính đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện
của hơn 140 nước. Các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức
nhân dân và phi chính phủ nước ngoài. Việt Nam cũng là thành viên tích cực và
có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng...
Ngày
10-9-2023, việc Việt Nam và Hoa Kỳ tuyên bố nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến
lược toàn diện nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ
Joe Biden một lần nữa ghi dấu mốc quan trọng mới trong quan hệ hai nước cũng
như trên hành trình nỗ lực chung của hai nước để hiện thực hóa mong muốn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về quan hệ hợp tác đầy đủ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Chuyến
thăm không chỉ có ý nghĩa đặc biệt, thể hiện sự coi trọng của Hoa Kỳ đối với
Việt Nam và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mà còn khẳng định vị thế và uy tín
ngày càng cao của Việt Nam, đồng thời thể hiện quyết tâm của Hoa Kỳ trong việc
đưa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên tầm cao mới. Tầm vóc mới của quan hệ hai nước
sẽ xác lập khuôn khổ bền vững, ổn định, lâu dài và mở ra không gian cho sự phát
triển của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ trong nhiều thập niên tới, đóng góp cho hòa
bình, ổn định, hợp tác và phát triển bền vững tại khu vực và trên thế giới. Một
thời kỳ hợp tác mới đã mở ra đối với quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, trong đó nội
dung cốt lõi là đưa mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ ngày càng đi vào chiều sâu,
bền vững hơn, hiệu quả hơn và tạo ra nhiều bước phát triển đột phá mang tính
chiến lược hơn. Tuy nhiên, thời kỳ mới cũng đặt ra tiêu chí và thước đo cao hơn
cả về chất lượng và số lượng đối với quan hệ giữa hai nước.
Có thể
khẳng định, sự phát triển theo chiều sâu của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ với dấu
mốc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát
triển bền vững, là xu thế tất yếu. Nguyên nhân không chỉ xuất phát từ nhân tố lịch
sử, mà còn bắt nguồn từ những động lực quan trọng của hiện tại và tương lai.
Một là, Việt
Nam và Hoa Kỳ cùng chia sẻ nhiều lợi ích song trùng và đan xen, đồng thời nỗ
lực gây dựng những lợi ích chiến lược lâu dài chung mới giữa hai nước. Hai bên đã đạt được
nhiều thành tựu về hợp tác và đang có cơ hội rộng mở để hợp tác trong các lĩnh
vực mới, như kinh tế số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, đổi mới sáng tạo,
ứng phó với biến đổi khí hậu, ổn định chuỗi cung ứng, phát triển kết cấu hạ
tầng… Hai nước đều có lợi ích chung trong việc bảo đảm hòa bình, ổn định an
ninh và thịnh vượng cho khu vực. Đây vừa là nguyên tắc cơ bản trong khuôn khổ
quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, vừa là lợi ích quan trọng
mà hai bên cùng hướng tới.
Hai là, trải
qua 22 năm nỗ lực bình thường hóa quan hệ (1973 - 1995), 28 năm chính thức
thiết lập quan hệ ngoại giao (1995 - 2023) và 10 năm thiết lập quan hệ đối tác
toàn diện (2013 - 2023), độ tin cậy chính trị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có những
bước cải thiện đáng kể, tạo điều kiện cho quan hệ song phương phát triển sang
một giai đoạn mới sâu sắc hơn, tin cậy hơn và toàn diện hơn vì lợi ích của nhân
dân hai nước, đóng góp và vun đắp cho một khu vực châu Á - Thái Bình Dương hòa
bình, ổn định, năng động và thịnh vượng.
Ba là, Việt
Nam và Hoa Kỳ đã trở thành những nhân tố quan trọng, là đối tác mang tính chiến
lược trong chính sách đối ngoại của nhau. Chương mới trong quan hệ giữa hai
nước sẽ đưa quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ phát triển
mạnh mẽ, sâu sắc, thực chất và hiệu quả. Hai nước sẽ hiện thực hóa nguyện vọng
của người dân về một tương lai tươi sáng và năng động, góp phần duy trì hòa
bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực quan trọng này cũng như trên
toàn thế giới.
Bốn
là, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ phát triển trong bối cảnh hòa
bình, hợp tác là xu thế chủ đạo ở khu vực và trên thế giới. Cho dù đang đứng
trước nhiều thách thức, song xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa được cho là sẽ
tiếp tục tiến triển. Các hiệp định thương mại tự do (FTA), nhất là các FTA thế
hệ mới, dưới nhiều hình thức và tầng nấc khác nhau, tạo ra những khuôn khổ hợp
tác mới sâu rộng hơn. Đây cũng là cơ hội thuận lợi cho quan hệ hợp tác kinh tế
- thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ trong tương lai.
Trong
giai đoạn phát triển tới, hai nước nhất trí tích cực triển khai Tuyên bố chung
về nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên đối tác chiến lược toàn diện nhân
chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden. Những nội hàm của khuôn
khổ hợp tác mới là sự kế thừa và nâng tầm từ các trụ cột hợp tác mà hai nước đã
và đang thiết lập. Chín lĩnh vực hợp tác được thiết lập từ khuôn khổ
Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ đều được bổ sung những khía cạnh
mới với những động lực mới, góp phần làm sâu sắc quan hệ song phương. Nổi
bật là: Thứ nhất, đẩy
mạnh hợp tác về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực số, đồng
thời gắn đổi mới sáng tạo là nền tảng cốt lõi và động lực quan trọng trong quan
hệ song phương; thứ
hai, hướng đến giải quyết những vấn đề ảnh hưởng
trực tiếp đến phát triển của Việt Nam, như biến đổi khí hậu, đẩy mạnh hợp
tác cụ thể tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng; thứ ba, bổ sung khía
cạnh hợp tác mới về các vấn đề khu vực và quốc tế, nhấn mạnh vai trò quan trọng
thiết yếu của Tiểu vùng sông Mekong trong việc duy trì ổn định, hòa
bình, thịnh vượng, hợp tác, phát triển bền vững của khu vực.
Trên cơ sở nhận thức và định hướng chung trong quan hệ giữa
hai nước, mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã đạt dấu mốc phát triển mới, mang ý
nghĩa lịch sử. Thành tựu này đạt được là do trong những năm qua, Việt Nam và
Hoa Kỳ đã thực sự cùng nhau nỗ lực phát triển quan hệ với tinh thần “gác lại
quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai” và thái
độ đối thoại chân thành, thẳng thắn, xây dựng. Đây cũng chính là điều làm nên
tính “khác biệt” và “đặc biệt” trong quan hệ giữa hai nước, như nhiều chuyên
gia đã bình luận rằng, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ là một mẫu mực của cố gắng
“vượt lên quá khứ để nhìn về tương lai”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét