Lịch sử dân tộc
Việt Nam là lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm; một
dân tộc yêu chuộng hòa bình, luôn phải căng mình tự vệ. Bởi vậy, hòa bình luôn
là mong ước, khát vọng ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Khát vọng hòa bình đã trở
thành lẽ sống, là khí phách hùng thiêng của nhân dân ta.
Khát vọng bảo vệ
hòa bình
Từ thuở cha ông
dựng nước và giữ nước, khát vọng hòa bình đã hun đúc ý chí, quyết tâm đánh giặc
ngoại xâm, cố kết tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Chúng ta coi “binh đao” là việc
bất đắc dĩ, nhưng khi đất nước bị xâm lăng, cả nước cùng đồng tâm kháng chiến bảo
vệ độc lập chủ quyền, quyết không khuất phục; quyết chiến, quyết thắng.
Rõ ràng bảo vệ
hòa bình trong điều kiện đất nước đang hòa bình là một tư duy biện chứng sâu sắc
hàm chứa cả “sức mạnh cứng” và “sức mạnh mềm”; bảo vệ hòa bình chính là chúng
ta đang thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc được thể hiện:
(1) Trước hết phải
bảo vệ môi trường hòa bình: Xây dựng, củng cố, phát triển các mối quan hệ song
phương, đa phương. Thêm bạn bớt thù; đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ
đi vào chiều sâu thực chất; tạo bước chuyển biến mới về hội nhập với phương
châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với các nước”. Thực hiện nhất
quán chủ trương "4 không". Để bảo đảm môi trường hòa bình, vấn đề
then chốt là: Kiên trì, bình tĩnh, sáng suốt, khôn khéo; xử lý đúng đắn các mối
quan hệ đối ngoại, trong đó có vấn đề chủ quyền lãnh thổ.
(2) Bảo vệ Tổ quốc
là bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ, nhân dân. Bảo vệ
nền độc lập tự chủ của đất nước phải gắn liền với bảo vệ hòa bình và hòa bình
được coi là một giá trị thiêng liêng của đất nước. Bảo vệ hòa bình không đồng
nghĩa với tư tưởng “Hòa bình chủ nghĩa”. Để có hòa bình thực sự phải luôn luôn
sẵn sàng đối phó với mọi nguy cơ chiến tranh. Vì vậy, bảo vệ hòa bình là trách
nhiệm chung của toàn dân, của cả hệ thống chính trị và các lực lượng vũ trang
bao gồm cả sứ mệnh bảo vệ hòa bình thế giới.
(3) Giải quyết
các bất đồng bằng biện pháp hòa bình: Trong nền hòa bình bền vững của đất nước,
cần gắn kết chặt chẽ “hòa bình ổn định, lợi ích quốc gia-dân tộc với hòa bình
an ninh ổn định của khu vực và thế giới. Bảo vệ Tổ quốc đồng nghĩa với bảo vệ
hòa bình. Bảo vệ hòa bình là một nội hàm của bảo vệ Tổ quốc và phải bảo vệ “từ
sớm-từ xa, từ lúc nước chưa nguy” bằng biện pháp hòa bình.
(4) Để bảo vệ
hòa bình bền vững: Cần phải luận giải bài toán “chiến thắng mà không cần chiến
tranh” ở tầm cao chiến lược, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ. Với mục tiêu
bao trùm: Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để tạo thuận lợi cho sự nghiệp
xây dựng-bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
quyền chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích chính đáng phù hợp với luật
pháp quốc tế. Làm sâu sắc thêm quan hệ mật thiết với các nước láng giềng; cân bằng
quan hệ với các nước lớn và giữ vững quan hệ với các nước bạn bè truyền thống;
góp phần giữ vững ổn định chính trị trong nước và khu vực.
Một số giải pháp
bảo vệ hòa bình bền vững để xây dựng và phát triển đất nước
1. Bảo đảm ổn định
chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Đây là nhân tố
quyết định, có vai trò to lớn, tầm quan trọng đặc biệt tạo cho Việt Nam có được
một nền hòa bình và thịnh vượng. Sự ổn định chính trị chỉ được xây dựng vững chắc
trên nền tảng lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều
hành của Nhà nước; tạo sức “đề kháng” mạnh để phòng ngừa, ngăn chặn, tiêu diệt
chủ nghĩa cá nhân, độc đoán, chuyên quyền, cơ hội chính trị, tham ô, tham
nhũng; mầm mống hình thành thế lực thù địch bên trong, với chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền”... trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ.
Giữ vững, tăng
cường và thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; thực hiện nghiêm
nguyên tắc tập trung dân chủ; phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ,
đảng viên, nhất là người chủ trì. Tạo sự đồng thuận, niềm tin của nhân dân. Lựa
chọn cán bộ có tâm, tầm, trí, gương mẫu vì sự nghiệp của Đảng và nhân dân. Xây
dựng chính quyền vì dân.
Đó chính là nòng
cốt để bảo vệ hòa bình bền vững. Quân đội nhân dân Việt Nam luôn giữ vững
nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, trở thành một đội
quân trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân, lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp
bảo vệ hòa bình. Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới, Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược
Quốc phòng Việt Nam là những quan điểm rõ ràng, nhất quán trong việc bảo vệ hòa
bình bền vững khi chúng ta đã có chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ để Tổ quốc không
bị bất ngờ.
2. Phát triển
kinh tế-xã hội là nhiệm vụ trung tâm: Mục tiêu cao cả tối thượng của Đảng là
mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; không ai bị bỏ lại phía sau; “dân giàu
thì nước mạnh”, đó là vấn đề cơ bản bảo đảm cho công cuộc bảo vệ hòa bình bền vững.
Cần tập trung đột phá và phát huy tối đa lợi thế, tiềm năng của các vùng, miền.
Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân; bảo đảm an sinh xã hội. Xây dựng tiềm lực kinh tế mạnh.
Huy động tối đa
nội lực kết hợp với kinh tế đối ngoại chính là tạo thế và lực cho sự nghiệp bảo
vệ hòa bình bền vững. Nâng cao chất lượng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đồng bộ, văn minh, hiện đại; hoàn thiện thể chế, cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng. Đẩy mạnh nghiên cứu chuyển đổi ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ,
phát triển kinh tế số, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Xử lý lợi ích hài
hòa, khó khăn cùng chia sẻ để bảo đảm “cùng thắng”. Kinh tế là nhân tố “cần” và
“đủ” để bảo vệ hòa bình. Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay đang thực hiện hiệu
quả chức năng là “đội quân sản xuất” vừa bảo đảm nâng cao đời sống cho cán bộ,
chiến sĩ; vừa tham gia vào tăng trưởng kinh tế, góp phần giảm bớt gánh nặng cho
đất nước.
3. Củng cố, tăng
cường phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc: Nhân tố quan trọng, là động
lực to lớn của sự nghiệp bảo vệ hòa bình bền vững và công cuộc đổi mới, xây dựng
đất nước. Với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm
tương đồng. Tăng cường sự đồng thuận xã hội, huy động sức mạnh tổng hợp để thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ hòa bình ngày càng bền vững.
“Lấy dân làm gốc”,
tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Giữ vững kỷ cương phép nước. Thực
hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng.
Tăng cường khối liên minh vững chắc giữa các giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức. Củng cố, chăm lo xây dựng mối đoàn kết của các dân tộc,
tôn giáo. Hiện nay, công tác này vẫn còn nhiều việc phải làm để không còn kẽ hở
dễ bị kẻ địch lợi dụng, chống phá.
Cần quy tụ sức mạnh
trong và ngoài nước; nâng cao dân trí, trọng dụng nhân tài, xây dựng và gìn giữ
bản sắc sân tộc, những giá trị thiêng liêng “bất biến”. Đặc biệt, sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Sự gắn kết chặt chẽ các lực lượng vũ trang và nhân dân địa
phương trên các tuyến biên giới, hải đảo, vùng biển trong việc bảo vệ chủ quyền
quốc gia là một trong những nhân tố góp phần quan trọng trong bảo vệ hòa bình.
4. Thường xuyên
chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với
thế trận an ninh nhân dân và xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc: Đây là nền tảng,
yếu tố quyết định tạo nên thế trận vững chắc cho bảo vệ hòa bình. Kết hợp kinh
nghiệm tổ tiên ta đánh giặc với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học quân sự thế
giới, chúng ta cần vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Đó là: Tăng cường
phổ cập và giáo dục quốc phòng cho toàn dân kiến thức cơ bản về quốc phòng, an
ninh. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp những quan điểm về xây dựng nền quốc
phòng vững chắc, thế trận quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân. Xây dựng
khu vực phòng thủ trên các địa bàn quân khu, theo các hướng, địa bàn chiến lược.
Gắn kết chặt chẽ quốc phòng, an ninh với chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội.
Xây dựng tiềm lực quốc phòng mạnh. Tăng cường các hoạt động diễn tập hiệp đồng
theo nhiệm vụ, địa bàn, môi trường tác chiến giữa các đơn vị chủ lực, quân,
binh chủng và địa phương về phòng thủ dân sự, xử lý tình huống an ninh truyền
thống và thách thức an ninh phi truyền thống.
Trong đó, Quân đội
nhân dân giữ vai trò nòng cốt, xây dựng lực lượng dự bị động viên ngày càng
hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp. Nâng cao chất lượng tổng hợp của Quân đội
dưới sự lãnh đạo-chỉ đạo của Quân ủy Trung ương-Bộ Quốc phòng. Xây dựng Quân đội
“cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại” thực sự là lực lượng “tinh, gọn, mạnh,
cơ động”. Trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc, nhân dân; thực sự là lực lượng
trong sạch, tin cậy, có bản lĩnh chính trị, năng lực, trình độ chỉ huy-tham mưu,
làm chủ vũ khí, trang bị hiện đại và ý chí chủ động, “không để Tổ quốc bị bất
ngờ”.
Phát huy nội lực,
xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng Việt Nam lưỡng dụng và hiện đại.
Từng bước làm chủ và sản xuất trang bị, vũ khí có ý nghĩa chiến lược để bảo vệ
chủ quyền, lãnh thổ. Xã hội hóa một số mặt bảo đảm, trang bị, vũ khí quốc phòng
trong nền kinh tế quốc dân; kết hợp mua sắm phù hợp, sẵn sàng đáp ứng cho tình
huống quốc phòng khi có yêu cầu. Đủ khả năng để tự vệ chính là tạo sức mạnh chủ
động bảo vệ hòa bình ngay trong thời bình.
5. Tăng cường mở
rộng hoạt động đối ngoại trong thời kỳ mới: Với 3 trụ cột là “Đối ngoại Đảng,
ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân” và giữa đối ngoại với quốc phòng, an
ninh tạo thế mạnh tổng hợp cho ngoại giao Việt Nam. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã từng khái quát: “Chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại
giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre
Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách
và khí phách của dân tộc Việt Nam”(1). Biết người, biết ta, tùy cơ ứng biến
“thêm bạn, bớt thù”.
Hội nhập quốc tế,
đối ngoại quốc phòng nhằm góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; đa phương
hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ, củng cố lòng tin, nâng cao vị thế, uy tín của
đất nước và Quân đội trên trường quốc tế. Tạo thế đan xen lợi ích, củng cố sự
tin cậy chiến lược với các đối tác, ngăn ngừa nguy cơ xung đột. Không “chọn
bên”, tranh thủ sự ủng hộ tối đa của quốc tế.
Xử lý hài hòa lợi
ích, linh hoạt đối tác, đối tượng, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc.
Có thể nói rằng: Bảo vệ hòa bình để tạo môi trường thuận lợi phục vụ phát triển
kinh tế thì công tác đối ngoại luôn ở tuyến đầu. Thực tiễn cho thấy, khi môi
trường quốc tế và khu vực ổn định thì thách thức, nguy cơ với đất nước giảm đi.
Bảo vệ hòa bình
bền vững để xây dựng và phát triển đất nước vừa là mục tiêu cao cả, vừa là đòi
hỏi tất yếu của lịch sử, là khát vọng thiêng liêng, cao quý của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân trong nỗ lực xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh; mọi người sống
trong thanh bình, hạnh phúc, được hưởng thụ giá trị cao quý: “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét