Việt Nam là một quốc gia
có sự đa dạng về dân tộc và tôn giáo. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định thực hiện chính sách nhất quán về việc
đoàn kết dân tộc và tôn giáo; đồng thời tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo cho nhân dân. Chính sách này thể hiện sự kiên quyết cũng như sự
sáng tạo trong việc vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết toàn dân là một yếu tố chiến lược
quan trọng, đóng vai trò quyết định đến sự thành công của cách mạng. Trong suốt
cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng đoàn kết chính là sức mạnh và từ
đoàn kết sẽ dẫn đến thành công: "Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công".
Đối với vấn đề tôn giáo, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 3/9/1945, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng một
trong những nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ là: “thực dân và phong kiến thi
hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương, để dễ thống trị. Tôi đề
nghị Chính phủ ta tuyên bố: tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”. Có thể thấy
rõ, Hồ Chí Minh luôn nhận thức sâu sắc rằng đồng bào theo các tôn giáo khác
nhau là một phần không thể thiếu trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Việc tập
hợp tín đồ tôn giáo vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không chỉ mang lại cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho họ mà còn đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng. Theo Người,
công tác tôn giáo phải hướng tới mục tiêu đoàn kết giữa những người có đạo và
không có đạo, cũng như đoàn kết giữa đồng bào có các tín ngưỡng khác nhau. Với
tinh thần trọng tâm là tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân
dân, cùng với sự đoàn kết giữa lương và giáo, hòa hợp dân tộc, Hồ Chí Minh đã
xây dựng một khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc. Khối đoàn kết này đã trở
thành nền tảng phục vụ cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển nhận thức
cũng như thực hiện các quan điểm, chủ trương về đại đoàn kết dân tộc, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn dựa trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội XIII, Đảng đã chỉ rõ bài học kinh nghiệm và
tư tưởng chỉ đạo cốt lõi: “phải kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Trên cơ sở này, Đảng đã kiên định thực
hiện quan điểm nhất quán về việc tôn trọng và đảm bảo quyền con người, bao gồm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều này được thực hiện thông qua việc vận dụng
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và đoàn kết dân tộc, phù hợp với bối
cảnh và yêu cầu mới của đất nước.
Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới và hơn 30 năm thực
hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
toàn dân và toàn quân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy
tinh thần yêu nước, đoàn kết, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, toàn diện, tạo
dấu ấn rõ rệt. Tại Đại hội XIII, Đảng nhận định rằng: “Đất nước ta chưa bao giờ
có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Tuy nhiên, Đảng
cũng cảnh báo về những khó khăn, thách thức còn tồn tại, trong đó có nguy cơ
"diễn biến hòa bình". Các thế lực thù địch, phản động ngày càng lợi dụng
vấn đề tôn giáo để chống phá Việt Nam. Chúng tuyên truyền, xuyên tạc và kêu gọi
quốc tế can thiệp, gây sức ép về các lĩnh vực "dân chủ", "nhân
quyền", "tự do tôn giáo", đồng thời hỗ trợ về tinh thần và vật
chất cho các đối tượng chống đối trong tôn giáo. Một số phần tử cực đoan trong
các tôn giáo đã công khai chống đối chính quyền, trong khi những "đạo lạ",
"tà đạo", hay "hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới" đang
phát triển và lây lan phức tạp, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Việc quán triệt, vận dụng quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cần tập trung thực hiện tốt một số vấn
đề sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục
hoàn thiện chính sách và pháp luật về tôn giáo, đồng thời giải quyết các vấn đề
liên quan đến tôn giáo một cách phù hợp với bối cảnh mới. Đảng và Nhà nước cần
ban hành, bổ sung và hoàn thiện các chính sách, quy định về tôn giáo, đảm bảo
tuân thủ tinh thần chỉ đạo của Đại hội XIII, cũng như cụ thể hóa các quy định của
Hiến pháp. Cần khẳng định rõ ràng quan điểm tôn trọng và phát huy các giá trị
văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo, đồng thời đề cao truyền thống yêu nước,
lòng nhân ái, sự đoàn kết và khoan dung để gắn kết và tập hợp cộng đồng tín đồ.
Thứ hai, cần tăng cường hoạt động vận động quần chúng tín đồ
và kêu gọi sự tham gia của các chức sắc tôn giáo vào công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Trong quá trình này, cần tiến hành tuyên truyền và giải thích một
cách hợp lý và sâu sắc quan điểm về đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước,
coi tôn giáo là một yếu tố quan trọng; đồng thời khẳng định chính sách tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và các quy định pháp luật liên quan đến quản
lý hoạt động tôn giáo. Dựa trên nền tảng đó, cần động viên và tạo điều kiện cho
các tín đồ thể hiện và phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn
giáo mình. Đặc biệt, cần chú trọng đến việc khơi dậy những lợi ích chung cốt
lõi như độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; sự hòa bình và
phát triển bền vững của đất nước và lợi ích quốc gia - dân tộc trong công tác
tuyên truyền và vận động.
Thứ ba, cần thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với
các hoạt động tôn giáo, trên cơ sở tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và tôn
giáo. Các cơ quan chức năng liên quan đến quản lý nhà nước về tôn giáo cần phối
hợp chặt chẽ để đảm bảo nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng và vai trò của tôn
giáo trong việc xây dựng đoàn kết dân tộc, cũng như ý nghĩa của việc phát huy
các giá trị văn hóa và đạo đức tốt đẹp trong tôn giáo đối với việc ổn định an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội tại địa
phương. Hơn nữa, cần tăng cường sự phối hợp giữa các ban ngành và đoàn thể
trong công tác tuyên truyền, phổ biến các đường lối, chủ trương của Đảng, cũng
như chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng
thời, cũng cần thông tin về âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá chế độ, nhằm giúp đồng bào các tôn giáo nâng
cao tinh thần cảnh giác và phân biệt giữa hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo thuần
túy và các hoạt động lợi dụng tôn giáo để xâm phạm an ninh quốc gia.
Thứ tư, cần tiến hành đấu tranh một cách hiệu quả nhằm đối
phó với các âm mưu và hoạt động của những thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để
gây chia rẽ đoàn kết dân tộc. Cần nắm bắt tình hình tôn giáo một cách toàn diện,
đặc biệt là các âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch tận dụng tôn giáo
cũng như khai thác những thiếu sót trong việc thực hiện chính sách và pháp luật
về tôn giáo để chống phá Việt Nam. Cần tập trung vào việc đối phó với những đối
tượng cầm đầu cực đoan, đặc biệt là những kẻ có mối quan hệ và liên kết với bên
ngoài, cùng các đối tượng phản động khác. Đồng thời, nâng cao hiệu quả công tác
tuyên truyền về những thành tựu tôn giáo của Việt Nam ra quốc tế, cung cấp
thông tin về các hành vi vi phạm pháp luật và chống đối của những người lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo cho các cơ quan ngoại giao, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng
đồng quốc tế và người dân trong nước. Hơn nữa, cần tích cực phòng chống các hoạt
động vu cáo, xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam của các thế lực thù địch
và những phần tử phản động nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nói tóm lại, để xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã kiên định trong việc quán triệt tư tưởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Việc tiếp
tục hoàn thiện chính sách pháp luật về tôn giáo, vận động quần chúng tín đồ và
chức sắc tôn giáo, tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo, cũng như đấu tranh
chống lại các âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch là những nhiệm
vụ trọng yếu trong giai đoạn hiện nay, góp phần đảm bảo an ninh quốc gia, tạo
nên nền tảng vững chắc cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét