Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2024

NVD42 - ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN

 

Thời gian gần đây, việc đảm bảo quyền con người, quyền tự do ngôn luận ở nước ta được cộng đồng quốc tế công nhận. Tuy nhiên, bất chấp những thành quả ấy, các thế lực thù địch, phản động lại cố tình xuyên tạc, vu khống rằng trên đất nước Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Các lực lượng thù địch luôn ra sức phê phán, xuyên tạc Việt Nam ngăn cản tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, là kẻ thù của tự do báo chí trên mạng. Các thế lực thù địch cho rằng: Nhà nước Việt Nam hạn chế tự do biểu đạt, tự do báo chí, tự do internet, bao gồm bắt và truy tố tùy tiện những người chỉ trích chính quyền, bàn luận các vấn đề chính trị; Các đối tượng còn ngộ nhận quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là quyền tuyệt đối nhằm kích động, tẩy chay và trả đũa nhau khốc liệt, kế cả bôi nhọ, chống đối chế độ xã hội, đặc biệt thông qua livestream “bẩn” trên mạng xã hội. Thúc đẩy thành lập một số tổ chức nhân danh văn chương, báo chí đề chống đối chể độ xã hội, đấy thành lập một số tổ xuyên tạc Nhà nước bắt, bỏ tù nhà báo độc lập. Với các tổ chức như “Văn đoàn độc lập”, “Hội nhà báo độc lập”, “Nhà báo độc lập”. “Phóng viên không biên giới” để đấu tranh cho cái gọi là tự do ngôn luận. Đưa ra bảng xếp hạng sai lệch về tự do báo chí ở Việt Nam; gây sức ép đòi thả tự do cho các đổi tượng bị cơ quan chức năng bắt giữ do vi phạm pháp luật Việt Nam mà họ gọi là bắt, bỏ tù “nhà báo báo độc lập”, “Blogger”…

Thực tế cho thấy, các thế lực phản động, thù địch đã cố tình lờ đi thực tiễn chính trị - pháp lý trong quá trình thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở các quốc gia trên thế giới. Chúng nhấn mạnh, cường điệu quyền tự do một chiều mà lờ đi nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức cũng như các hậu quả xấu mà các hành vi đó gây ra cho xã hội. Chúng cố tình không đề cập quy định pháp luật của các quốc gia, trong đó có Việt Nam, về hướng dẫn thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí một cách phù hợp. Đối với Đảng và Nhà nước Việt Nam, quyền tự do ngôn luận, báo chí không chỉ là quyền cần phải bảo đảm mà còn là một động lực cho sự phát triển của xã hội. Sự phát triển toàn diện kinh tế xã hội của Việt Nam thời gian qua cho thấy những cáo buộc Việt Nam không tôn trọng nhân quyền, thiếu tự do báo chí là vô căn cứ.

Chúng ta phải khẳng định rằng, tôn trọng quyền tự do ngôn luận là chủ trương, chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam và được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật

Tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. 

Trong những năm qua, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin. Điều này được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 và được thể chế hóa trong các bộ luật liên quan như Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Luật An ninh mạng năm 2018 và nhiều văn bản pháp luật khác. Cụ thể: Điều 25, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Hay khoản 1, Điều 3, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 cũng khẳng định: “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin”. Bên cạnh đó, Luật Báo chí năm 2016 và Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 cũng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí; bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân.

Từ năm 1945, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để người dân được thụ hưởng. Tính đến tháng 3-2024, Việt Nam có 127 cơ quan báo, 677 cơ quan tạp chí (trong đó 327 tạp chí lý luận chính trị và khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật); 71 cơ sở truyền thanh, truyền hình hoạt động độc lập; 666 cơ sở truyền hình - truyền thanh cấp huyện; 9.959 đài truyền thanh cấp xã (trong đó 1.757 đài truyền thanh ứng dụng công nghệ thông tin - viễn thông, 1.386 đài của xã nông thôn, miền núi); 57 nhà xuất bản. Số lượng lao động trong lĩnh vực báo chí ước khoảng 71.830 người (tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2022); Tỷ lệ người dùng internet đạt 78,59% (vượt mục tiêu kế hoạch năm 2023, năm 2023 là 76%); 253 cơ quan báo chí tham gia hoạt động thông tin đối ngoại, 59 văn phòng báo chí Việt Nam thường trú tại nước ngoài, 137 phóng viên Việt Nam thường trú tại nước ngoài trong năm 2022; số người được cấp thẻ nhà báo là 11.958.Số liệu thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông cũng cho thấy, tính tới tháng 9/2022, số lượng người dùng Internet ở Việt Nam là khoảng 70 triệu người, tăng 0,8% trong giai đoạn 2020 - 2021 (chiếm hơn 70% dân số); số người sử dụng mạng xã hội ở Việt Nam là gần 76 triệu người, tăng gần 10 triệu người trong vòng 1 năm (tương đương 73,7% dân số). Với con số này, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Người dùng Việt Nam dành trung bình tới gần 7 giờ mỗi ngày để tham gia các hoạt động liên quan tới Internet và tỉ lệ người dùng Internet ở Việt Nam sử dụng Internet hàng ngày lên tới 94%. Vậy vì sao trong số 70 triệu tài khoản Facebook của người Việt chỉ có một số người, như Hồ Văn Hải, Vũ Quang Thuận, Hoàng Đức Bình, Phạm Đoan Trang,… bị ra tòa? Đó là vì họ đã vi phạm pháp luật.

Thực tế là Nhà nước Việt Nam chỉ xét xử những ai lấy danh nghĩa nhà báo nhưng có hành vi cố tình vi phạm pháp luật, lợi dụng “tự do báo chí”, “tự do ngôn luận”, để tuyên truyền, tán phát tài liệu, các bài viết có nội dung xấu độc phá hoại an ninh quốc gia, gây mất an toàn xã hội, kích động bạo lực, ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức, lối sống, truyền thống, văn hóa, lịch sử đất nước, con người Việt Nam. Chẳng hạn Hồ Văn Hải với trang blog và tài khoản Facebook đã đăng nhiều bài viết bôi nhọ, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước; Vũ Quang Thuận và Nguyễn Văn Điển đã đăng tải nhiều video/clip lên internet, phỉ báng chính quyền, phao tin bịa đặt, xuyên tạc sự thật. Hoàng Đức Bình vi phạm tội “Chống người thi hành công vụ”; “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” trong vụ “biểu tình bất bạo động”, tụ tập đông người cố tình gây ách tắc Quốc lộ 1A đoạn qua Hà Tĩnh, Nghệ An vào tháng 5/2017. Phạm Thị Đoan Trang với hàng loạt các hành vi như viết hàng trăm tài liệu nội dung xuyên tạc, phản động... vi phạm tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 88 Bộ luật Hình sự 1999 và Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 117 Bộ luật Hình sự 2015.

Mọi quyền tự do, trong đó có tự do ngôn luận đều phải có giới hạn nhất định.

Trong pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của mỗi quốc gia, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí không phải là quyền tuyệt đối, tự do vô chính phủ.

Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 đã khẳng định tại Điều 19: “Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận có thể phải chịu một số hạn chế nhất định và những hạn chế này cần được quy định bởi pháp luật, nhằm: a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”.

Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm 1789 ghi nhận: “Bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ phải chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật”. Các hành vi phỉ báng, xúc phạm danh dự của tổng thống hay các thành viên hoàng gia... bị hình sự hóa ở các nước như Italia, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ...

Ngay tại Hoa Kỳ, giới hạn của tự do ngôn luận được thể hiện ở chỗ Tòa án Tối cao Hoa Kỳ cho phép chính quyền ngăn chặn và trừng phạt các phát ngôn có tính chất khiêu dâm, tục tĩu, phỉ báng, xúc phạm và gây hấn mà không bị xem là vi hiến.

Pháp luật Việt Nam cũng nghiêm cấm các hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để vu khống, bôi nhọ danh dự cá nhân, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thông tin không đúng sự thật, gây hoang mang trong dư luận, xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác... Các hành vi nghiêm cấm này được quy định cụ thể trong các văn bản: Luật báo chí năm 2016 (Điều 9), Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 (Điều 3), Luật An ninh mạng năm 2018 (Khoản 3, Điều 16); Bộ luật Hình sự năm 2015 (Điều 331).

Tự do ngôn luận, tự do báo chí là những quyền cơ bản của con người, được pháp luật Việt Nam tôn trọng và bảo đảm. Tuy nhiên, quyền tự do nói chung, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí nói riêng đều phải trong khuôn khổ cho phép và không bị nghiêm cấm bởi luật pháp. Những thành tựu về mặt pháp lý, cũng như thực tiễn thời gian qua là minh chứng sinh động phản bác luận điệu xuyên tạc trong Báo cáo cho rằng Việt Nam “không tôn trọng” hay “xâm phạm” quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Các đối tượng còn ngộ nhận quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là quyền tuyệt đối nhằm kích động, tẩy chay và trả đũa nhau khốc liệt, kế cả bôi nhọ, chống đối chế độ xã hội, đặc biệt thông qua livestream “bẩn” trên mạng xã hội. Thúc đẩy thành lập một số tổ chức nhân danh văn chương, báo chí đề chống đối chể độ xã hội, đấy thành lập một số tổ xuyên tạc Nhà nước bắt, bỏ tù nhà báo độc lập. Với các tổ chức như “Văn đoàn độc lập”, “Hội nhà báo độc lập”, “Nhà báo độc lập”. “Phóng viên không biên giới” để đấu tranh cho cái gọi là tự do ngôn luận. Đưa ra bảng xếp hạng sai lệch về tự do báo chí ở Việt Nam; gây sức ép đòi thả tự do cho các đổi tượng bị cơ quan chức năng bắt giữ do vi phạm pháp luật Việt Nam mà họ gọi là bắt, bỏ tù “nhà báo báo độc lập”, “Blogger”…

Thực tế cho thấy, các thế lực phản động, thù địch đã cố tình lờ đi thực tiễn chính trị - pháp lý trong quá trình thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở các quốc gia trên thế giới. Chúng nhấn mạnh, cường điệu quyền tự do một chiều mà lờ đi nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức cũng như các hậu quả xấu mà các hành vi đó gây ra cho xã hội. Chúng cố tình không đề cập quy định pháp luật của các quốc gia, trong đó có Việt Nam, về hướng dẫn thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí một cách phù hợp. Đối với Đảng và Nhà nước Việt Nam, quyền tự do ngôn luận, báo chí không chỉ là quyền cần phải bảo đảm mà còn là một động lực cho sự phát triển của xã hội. Sự phát triển toàn diện kinh tế xã hội của Việt Nam thời gian qua cho thấy những cáo buộc Việt Nam không tôn trọng nhân quyền, thiếu tự do báo chí là vô căn cứ.

Thấy rằng, việc Việt Nam xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý bảo đảm quyền tự do ngôn luận, bảo đảm nguyên tắc báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ nháp luật và được Nhà nước bảo hộ nhưng không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân là hoàn toàn phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người và kinh nghiệm thực tiễn ở nhiều nước. Luật pháp nghiêm cấm các hành vi lợi dụng quyền tự do này để viết bài vu khống, bôi nhọ danh dự cá nhân.

Tự do ngôn luận, tự do báo chí là những quyền cơ bản của con người cần được tôn trọng và bảo đảm. Tuy nhiên, ở bất kỳ quốc gia nào, tự do ngôn luận, tự do báo chí cũng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật nhằm tránh hiện tượng bị lợi dụng, gây phương hại đến quyền, lợi ích của cá nhân khác, đến đạo đức xã hội, trật tự công cộng và an ninh quốc gia. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, internet và mạng xã hội đã trở thành công cụ thể hiện quyền tự do ngôn luận của đông đảo người dân, điều này đặt ra nhiều vấn đề về xã hội và pháp lý, trong đó có việc quản lý thông tin trên không gian mạng hiện nay. Cũng cần phải nhìn nhận một cách khách quan rằng việc thực hiện các quyền tự do nói chung, quyền tự do ngôn luận nói riêng phải luôn gắn chặt với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm chăm lo thực hiện tốt quyền tự do cơ bản của con người, của công dân, trong đó có tự do ngôn luận, nhưng đi kèm với đó phải là kỷ luật, kỷ cương, pháp luật. Tạo mọi điều kiện tốt nhất để công dân thực hiện quyền tự do, trong đó, có tự do ngôn luận nhưng với những hành vi lợi dụng tự do ngôn luận để làm những điều trái luật, làm phương hại danh dự, nhân phẩm người khác; gây tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc… thì phải nghiêm trị theo pháp luật.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...