Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2024

NVI41 - VẪN LÀ CHIÊU TRÒ “CHÍNH TRỊ HÓA” CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

 

                Ngày 7/3/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an quyết định khởi tố bị can, bắt bị can để tạm giam, khám xét đối với 9 bị can, trong đó có bà Hoàng Thị Thúy Lan Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội, Chủ tịch HĐND tỉnh Vĩnh Phúc và ông Lê Duy Thành, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc cùng về tội "Nhận hối lộ” theo quy định tại khoản 4, Điều 354 Bộ luật Hình sự.

            Lợi dụng vụ việc trên, một số đài báo nước ngoài, tài khoản mạng xã hội của các tổ chức, cá nhân phản động, thiếu thiện chí với Việt Nam như: RFA, VOA tiếng Việt, BBC tiếng Việt; Tiếng dân News, Việt Tân… đã phát nhiều tài liệu có nội dung vu khống cơ quan công an bắt tạm giam bị can bà Hoàng Thị Thúy Lan và ông Lê Duy Thành là “âm mưu chính trị” đối với các bị can trên.

            Luận điệu này cho thấy một âm mưu chính trị và hoạt động chống phá nguy hiểm. Không chỉ xuyên tạc làm sai lệch bản chất sự việc, đẩy nóng vấn đề, hướng lái, dẫn dắt dư luận theo chiều hướng vụ việc “mang màu sắc chính trị” mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của Đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật Việt Nam.

            Theo quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng Hình sự thì chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu của tội phạm. Trước đó, Bộ Công an đã chính thức thông tin về việc mở rộng điều tra vụ án “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” do Nguyễn Văn Hậu và đồng phạm thực hiện xảy ra tại Công ty cổ phần Tập đoàn Phúc Sơn (viết tắt Tập đoàn Phúc Sơn), Công ty cổ phần Đầu tư Thương mại và Bất động sản Thăng Long (viết tắt Công ty Bất động sản Thăng Long) và các đơn vị liên quan.

            Thực chất, bà Hoàng Thị Thúy Lan và ông Lê Duy Thành đã có những dấu hiệu tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự của Việt Nam cần phải điều tra làm rõ. Do đó việc các cơ quan bảo vệ pháp luật khởi tố bị can, bắt tạm giam bà Hoàng Thị Thúy Lan và ông Lê Duy Thành là đúng với những quy định của pháp luật và hoàn toàn bình thường. Đây không phải là “đòn thanh trừng” như một số đài báo nước ngoài, tài khoản mạng xã hội rêu rao. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định rất rõ ràng về quyền và nghĩa vụ công dân. Điều 16 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Bà Hoàng Thị Thúy Lan và ông Lê Duy Thành hay bất kỳ ai, giữ vai trò, vị trí công tác nào nếu vi phạm pháp luật cũng sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam là việc của cơ quan có thẩm quyền dựa trên các căn cứ, chứng cứ, ra quyết định để bắt đầu đưa ra xem xét xử lý theo quy định pháp luật đối với người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm. Đây là việc không hề đơn giản vì nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến danh dự, uy tín, sự nghiệp của bản thân mỗi người mà còn liên quan đến gia đình, dòng họ. Do đó, trong từng vụ việc trước khi đi đến quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam để điều tra đối với bất kỳ ai các cơ quan chức năng đều phải xem xét, cân nhắc hết sức thận trọng, kỹ lưỡng, khách quan, đặt lợi ích của Nhà nước, của nhân dân lên trên hết.

            Như vậy, việc ra quyết định khởi tố bị can, lệch bắt tạm giam, khám xét nơi ở, nơi làm việc đối với bà Hoàng Thị Thúy Lan và ông Lê Duy Thành để điều tra về tội Nhận hối lộ” theo quy định tại khoản 4, Điều 354 Bộ luật Hình sự của các cơ quan chức năng là đúng quy định pháp luật. Những luận điệu của một số đài báo nước ngoài, tài khoản mạng xã hội như đã nói thực chất vẫn là chiêu trò “chính trị hóa” các vụ án hình sự để làm sai lệch bản chất vụ việc, hướng lái dư luận sang những vấn đề chính trị, xã hội hệ trọng, nhạy cảm khác nhằm chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động. 

            Việc bà Hoàng Thị Thúy Lan và ông Lê Duy Thành và các bị can liên quan bị khởi tố, bắt tạm giam và những sai phạm của họ đến đâu, như thế nào sẽ có các cơ quan bảo vệ pháp luật vào cuộc làm rõ. Khi chưa có kết luận cuối cùng của cơ quan chức năng thì chúng ta không nên suy diễn, thêu dệt, võ đoán, bàn tán, lên mạng xã hội đăng đàn dễ để kẻ xấu lợi dụng. Mặt khác chúng ta cần nhận thức rõ về luận điệu, chiêu trò “chính trị hóa” các vụ án hình sự để không ngộ nhận, tin theo, không tiếp tay cho các thế lực thù địch, phản động. Đồng thời chủ động tham gia đấu tranh phản bác những luận điệu bóp méo, xuyên tạc, suy diễn, quy chụp nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta./.

 

 

NVI41 - TIẾP TỤC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ ĐIỀU HÀNH VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH TRONG QUÂN ĐỘI

 

            Thời gian qua, bên cạnh thuận lợi là cơ bản, toàn quân triển khai thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong điều kiện đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do tác động từ nhiều yếu tố, nhất là tình hình quân sự, chính trị, thiên tai, dịch bệnh,... ảnh hưởng trực tiếp đến các mặt công tác nói chung, việc điều hành, quản lý ngân sách nói riêng. Trong bối cảnh đó, trên cơ sở quán triệt nắm chắc đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, ngành Tài chính Quân đội đã bám sát thực tiễn, chủ động tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy các cấp, nhất là cấp chiến lược, quyết liệt thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tham mưu bảo đảm và quản lý tài chính đúng pháp luật, chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả; góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội; từng bước củng cố, tăng cường tiềm lực quân sự, quốc phòng.

             Thời gian tới, dự báo tình hình quốc tế, khu vực và trong nước tiếp tục có những diễn biến phức tạp, thuận lợi, khó khăn đan xen, đặc biệt là tiềm ẩn nguy cơ phục hồi kinh tế chậm, suy giảm tăng trưởng; rủi ro lạm phát gia tăng; thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp. Trong khi đó, nhiệm vụ xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đặt ra những yêu cầu mới ngày càng cao. Toàn quân đẩy mạnh tiến trình xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” tiến lên hiện đại và triển khai nhiều nhiệm vụ, nội dung công tác quan trọng, với mục tiêu, yêu cầu cao, mang tính đột phá, nhất là về tổ chức lực lượng, chế độ, chính sách, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật, v.v. Nhu cầu tài chính bảo đảm cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng tăng mạnh, yêu cầu về quản lý tài chính ngày càng cao trong bối cảnh khả năng bảo đảm ngân sách của Nhà nước còn khó khăn, đặt ra cho công tác tài chính Quân đội nhiệm vụ nặng nề. Tình hình trên đòi hỏi các cơ quan, đơn vị nói chung, ngành Tài chính Quân đội nói riêng cần tiến hành đồng bộ, khoa học các giải pháp; trong đó, chú trọng nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác điều hành và quản lý ngân sách, tạo chuyển biến mạnh mẽ, vững chắc, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc; tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:

            Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tài chính; làm tốt chức năng tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp, nhất là cấp chiến lược về công tác quản lý và điều hành ngân sách trong Quân đội.

             Trên cơ sở Quy chế số 616-QC/QUTW, ngày 29/9/2021 của Quân ủy Trung ương về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy, chỉ huy các cấp về công tác tài chính trong Quân đội, các cơ quan, đơn vị cần rà soát, hoàn thiện quy chế lãnh đạo của cơ quan, đơn vị mình, đảm bảo mọi hoạt động tài chính, ngân sách phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo nguyên tắc: cấp ủy lãnh đạo, người chỉ huy điều hành, cơ quan tài chính làm tham mưu, giúp việc và tổ chức thực hiện. Đồng thời, quán triệt sâu sắc các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên gắn với thực tiễn từng cơ quan, đơn vị, lĩnh vực, làm cơ sở nâng cao năng lực nghiên cứu, dự báo, tham mưu đúng, trúng, phù hợp các chủ trương, giải pháp về điều hành, quản lý ngân sách. Trong đó, chú trọng tham mưu điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện quy chế lãnh đạo của cấp ủy về công tác tài chính cho phù hợp với tình hình thực tiễn mới; phát huy vai trò, trách nhiệm người chỉ huy và cơ quan tài chính các cấp; đẩy mạnh cơ chế phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm người đứng đầu gắn với đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao trong quản lý, sử dụng ngân sách. Tập trung đề xuất giải pháp tổng thể, căn cơ, nhằm đổi mới một cách toàn diện, cơ bản, đồng bộ, mạnh mẽ công tác tài chính. Trong đó, tập trung vào: hoàn thiện cơ chế, chính sách huy động, đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; cơ chế quản lý, điều hành, sử dụng ngân sách, tài sản; lập dự toán ngân sách hằng năm, kế hoạch đầu tư công; hạch toán kế toán, thanh tra, kiểm tra, giám sát bảo đảm công khai, minh bạch, phát huy dân chủ; kịp thời phát hiện, ngăn ngừa, kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh các sai phạm trong công tác quan trọng này, v.v.

             Để đạt hiệu quả cao, các cơ quan, đơn vị cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm Nghị định số 99/2021/NĐ-CP, ngày 11/11/2021 của Chính phủ quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công; Quy chế số 616-QC/QUTW; văn bản số 2929/BQP-TC, ngày 02/9/2022 của Bộ Quốc phòng về đẩy nhanh thực hiện thủ tục đầu tư dự án mở mới thuộc Kế hoạch đầu tư trung hạn nguồn vốn ngân sách quốc phòng giai đoạn 2021 - 2025, các dự án mở mới năm 2023; đẩy mạnh phong trào thi đua “Xây dựng đơn vị quản lý tài chính tốt” theo hướng thực chất, hiệu quả, tạo động lực thực hiện tốt công tác tài chính. Trên cơ sở đó, thống nhất nhận thức, đề cao trách nhiệm trong tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp, nhất là cấp chiến lược về công tác quản lý và điều hành ngân sách trong Quân đội, không để những sai sót đáng tiếc xảy ra.

            Hai là, phát huy tối đa nguồn lực tài chính bảo đảm cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; thực hiện cân đối tích cực; nâng cao năng lực điều hành, quản lý ngân sách, tài chính của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong Quân đội.

            Theo chức năng, nhiệm vụ, cơ quan tài chính các cấp cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, địa phương liên quan, kịp thời bảo đảm nguồn lực tài chính đáp ứng yêu cầu nhiệm quân sự, quốc phòng trong tình hình mới. Trong đó, cần tập trung làm tốt việc tiếp nhận, điều hành, quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên cho quốc phòng; các chương trình, dự án sử dụng các nguồn viện trợ không hoàn lại, vốn ODA, trái phiếu Chính phủ, quỹ dự trữ ngoại hối, các chương trình mục tiêu quốc gia, v.v. Đồng thời, tăng cường đầu tư, nâng cao năng lực, tiềm lực, hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp Quân đội để không những bảo toàn và phát triển vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, an toàn tài chính, tiết kiệm chi phí, mà còn tăng thu ngân sách, trực tiếp phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và nâng cao đời sống người lao động.

            Trên cơ sở nắm chắc các nguồn tài chính, ngành Tài chính thực hiện cân đối tích cực, phân bổ triệt để, đúng trọng tâm, trọng điểm, thứ tự ưu tiên cho các nhiệm vụ. Trong đó, ưu tiên bảo đảm thực hiện chế độ, chính sách, đời sống vật chất và tinh thần cho bộ đội; tăng đầu tư cho huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia; xây dựng lực lượng dự bị động viên; đối ngoại quân sự. Dành ngân sách phù hợp cho đầu tư mua sắm, sản xuất, nâng cấp, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị, thiết bị quân sự; nâng mức đảm bảo duy trì tình trạng kỹ thuật của vũ khí, trang bị hiện có. Đồng thời, xây dựng kế hoạch bảo đảm tài chính phù hợp với nhiệm vụ của các cấp, ngành, lĩnh vực trong thực hiện điều chỉnh tổ chức, lực lượng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Kiên quyết khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, không đúng quy hoạch; hạn chế phát sinh nợ đọng mới trong xây dựng cơ bản, v.v. Quá trình triển khai, ngành Tài chính cần tiến hành khoa học, đồng bộ các biện pháp; trước hết, tập trung làm tốt việc sửa đổi, bổ sung Hướng dẫn số 8568/HD-BQP, ngày 08/8/2019 về lập dự toán, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước trong Bộ Quốc phòng, đảm bảo phù hợp, sát với yêu cầu nhiệm vụ, có lộ trình thực hiện khả thi; tích cực triển khai xây dựng hệ thống định mức lập, phân bổ dự toán ngân sách, làm cơ sở khoa học cho việc phân bổ dự toán ngân sách hằng năm.

             Điều hành, quản lý ngân sách cần đảm bảo đúng pháp luật, khoa học, linh hoạt, chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả; đề cao tính công khai, minh bạch, phát huy cơ chế tự kiểm soát và giám sát của tập thể. Cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp phải đề cao trách nhiệm, thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong chi tiêu, mua sắm, đấu thầu, sử dụng ngân sách, quản lý nguồn thu, vốn, vật tư, tài sản nhà nước phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Bên cạnh đó, cần quyết liệt triển khai các giải pháp xử lý tài chính trong quá trình sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Quân đội. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trong Quân đội, như: bệnh viện, nhà khách, đoàn an dưỡng,… đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật về tự chủ tài chính đơn vị sự nghiệp công lập và phù hợp với đặc thù quân sự, quốc phòng.

            Ba là, tăng cường, nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát về điều hành và quản lý ngân sách.

            Lĩnh vực tài chính, ngân sách là lĩnh vực rất dễ xảy ra hiện tượng tiêu cực, tham nhũng. Do vậy, ngoài việc làm tốt công tác quản lý, cần chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đảm bảo sử dụng hiệu quả ngân sách, triệt để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Các cấp cần kết hợp chặt chẽ cả kiểm tra, thanh tra thường xuyên và đột xuất; kết hợp cả kiểm tra, thanh tra của cơ quan tài chính, cơ quan nghiệp vụ với kiểm tra, giám sát của cấp ủy. Chủ động phối hợp với Kiểm toán Nhà nước, Kiểm toán Bộ Quốc phòng trong thực hiện kế hoạch kiểm toán các đơn vị theo chuyên đề; triển khai kiểm toán độc lập đối với các dự án xây dựng cơ bản.

             Để thực hiện hiệu quả, cần tiến hành khách quan, độc lập, toàn diện công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát quá trình điều hành, quản lý ngân sách của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp theo đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định trong Quân đội. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trên tất cả các khâu của quá trình sử dụng ngân sách, tập trung vào lĩnh vực mua sắm trang bị, đầu tư xây dựng cơ bản,... và đôn đốc thực hiện đầy đủ, kịp thời các kết luận, kiến nghị của các cơ quan thanh tra, kiểm toán. Chú trọng làm tốt công tác phổ biến, quán triệt, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, kỷ cương, kỷ luật theo hướng “thượng tôn pháp luật”. Chấp hành nghiêm, thực hiện có hiệu quả Đề án số 1013-ĐA/QUTW, ngày 01/9/2022 của Quân ủy Trung ương về “Phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong Quân đội” gắn với phát huy trách nhiệm của cấp ủy, vai trò nêu gương của cán bộ chủ trì các cấp trong điều hành, quản lý cả về ngân sách và tài sản công; đề cao trách nhiệm người chỉ huy, quyền giám sát của cán bộ, chiến sĩ và các tổ chức quần chúng, Hội đồng quân nhân trong việc quản lý, điều hành, sử dụng ngân sách tại cơ quan, đơn vị mình. Song song với đó, các cơ quan, đơn vị tiếp tục triển khai quyết liệt các giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế và xử lý nghiêm minh, “không vùng cấm” với các vi phạm pháp luật, kỷ luật Quân đội.

             Bốn là, thực hiện cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực tài chính; nâng cao chất lượng nguồn lực cán bộ tài chính quân sự, xây dựng tác phong, quan điểm làm việc đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

             Các cấp cần quyết liệt triển khai đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính; xây dựng, triển khai chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính theo các chỉ tiêu phát triển Chính phủ điện tử. Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý và điều hành ngân sách tại các cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp, rút ngắn thời gian thống kê, tổng hợp số liệu quản lý ngân sách. Đầu tư trang thiết bị, phần mềm quản lý tài chính; phủ rộng hơn hệ thống mạng quân sự ở các cấp; quy định cụ thể về bảo đảm an toàn, bảo mật tuyệt đối dữ liệu tài chính,... góp phần thực hiện hiệu quả Kế hoạch chuyển đổi số toàn ngành Tài chính Quân đội giai đoạn 2021 - 2025 và đến năm 2030.

             Bên cạnh đó, các cơ quan, đơn vị cần làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên tài chính các cấp, bảo đảm đủ về số lượng, chất lượng ngày càng cao, chú trọng về phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ; có kế hoạch, thực hiện bố trí, sắp xếp lực lượng cân đối, phù hợp theo nhiệm vụ, địa bàn, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài. Theo đó, cùng với tích cực tổ chức cho cán bộ tài chính được đào tạo cơ bản tại các học viện, nhà trường trong và ngoài Quân đội, cần kết hợp chặt chẽ, chất lượng với bồi dưỡng tại chỗ. Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác huấn luyện, tập huấn cho cả đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và cán bộ các ngành nghiệp vụ, cán bộ làm công tác tài chính; trong đó, thường xuyên cập nhật kiến thức về quản lý, điều hành tài chính, ngân sách cho các đối tượng liên quan theo hướng sát thực, phù hợp, hiệu quả để không ngừng nâng cao năng lực tham mưu, lãnh đạo, chỉ đạo và trực tiếp tiến hành công tác quản lý, điều hành ngân sách, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

             Cùng với đó, các cơ quan, đơn vị cần triển khai quyết liệt các giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế; xây dựng ngành Tài chính Quân đội trong sạch, vững mạnh, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, góp phần cùng toàn quân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng Quân đội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

NVI41 - TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC, NHỮNG KẺ BÁN NƯỚC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC ĐỀU LÀ GIẶC VÀ ĐÓN NHẬN CÁI KẾT NHỤC NHÃ

 

Hàng năm cứ gần đến tháng 4 về là y như rằng các đối tượng ở hải ngoại và những “nhân sĩ, trí thức” theo “xã hội dân sự” trong nước lại tập trung ra rả những luận điệu cũ rích, nhai đi nhai lại đến mòn cả răng những bài xưa, lối cũ, khiến cho “ngưu ma vương” cũng cúi đầu chịu bái phục. Biết thế nào trong thời gian tới những luận điệu kể trên cũng sẽ được phát, vậy nên để sẵn mấy lời trước gọi là “thần cơ diệu toán”.

Thứ nhất, các người hãy thôi ca ngợi cái gọi là “anh hùng tử khí hùng bất tử” khi nói về những tướng lĩnh của ngụy quân Sài Gòn đã tự sát, trước trong và sau ngày 30/4/1975, đừng ca ngợi họ là “tuẫn tiết vì nước”.

Một số tướng như Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ đã tự sát, họ tự sát là vì nỗi ô nhục khi đang tâm, tình nguyện làm nô bộc cho Hoa Kỳ; chém vào tổ quốc này những vết chém ngang lưng, chia đôi sơn hà của tổ tiên để lại, giúp cho người Mỹ mưu đồ biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Không đau, không nhục sao được khi mà người Việt Nam lại phò trợ ngoại bang để thôn tính chính quê cha đất tổ của mình, chỉ vì hám danh hám lợi. Tuẫn tiết ư? Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu thủ thành, thành mất tướng cũng tuẫn tiết theo thành, chết là để sống mãi với non sông đất nước, thế mới gọi là tuẫn tiết vì nước. Còn những tướng ngụy kia họ đại diện cho ai, lý tưởng là gì thì đến chính họ còn không hiểu, đứng vấy bẩn lên hai từ thiêng liêng “tuẫn tiết”. Cũng có thể họ sợ đồng bào miền Nam sẽ trả thù vì những tội ác mà họ gây ra cho đồng bào hoặc đó chỉ là hậu quả của việc người Mỹ tuyên truyền về cái gọi là “cộng sản sẽ tắm máu nếu chiếm được Sài Gòn”. Chết vì nhục, vì sợ chứ tuẫn tiết nỗi gì!

Thứ Hai, các ngươi thôi ca ngợi “quân lực VNCH” với khẩu hiệu “tổ quốc, danh dự, trách nhiệm”!

Tổ quốc ở đâu khi các người rước Hoa Kỳ và đồng minh vào để băm vằm, cày xới lên cơ thể của đất nước? Tổ quốc có thể hiểu là đất nước do tổ tiên từ bao đời đã lấy máu đào để bảo vệ, xây dựng và để lại cho con cháu, truyền từ đời này sang đời khác; các người hết làm ưng khuyển cho Pháp, lại làm đầy tớ của Mỹ, muốn chia đôi, xẻ thịt giang sơn mà tổ tiên để lại thì thử tổ quốc ở đâu trong trường hợp này?

Danh dự, “làm trai sống ở trong trời đất/phải có danh gì với núi sông”, danh dự cái gì khi các người nhận giặc làm cha, bán rẻ linh hồn cho ngoại bang và mặc cho chúng cấu xe non sông này, danh dự gì khi các người khấu đầu trước giặc nhưng lại đạp lên đầu nhân dân Việt Nam.

Trách nhiệm, “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, nghĩa là đất nước khi thịnh vượng cũng như lúc suy vong thì mỗi người đều có trách nhiệm để xây dựng và bảo vệ, các người bán đứng tổ quốc không chỉ một, hai mà đến ba lần (Pháp, Nhật, Mỹ), là gia nô ba họ của ngoại bang thì đào đâu ra cái gọi là trách nhiệm với đất nước. Trách nhiệm với tổ quốc là phải như những người cộng sản, họ quyết tử cho tổ quốc quyết sinh và bây giờ đang xây dựng một Việt Nam ngày càng giàu mạnh, cơm ngon, áo đẹp.

Thứ ba, các người thôi nói “Cộng sản là độc tài, bao năm giải phóng nhưng đất người vẫn đói nghèo”!

Vâng, cộng sản là “độc tài”, độc tài ở đây có nghĩa là đầy tài năng và độc đáo trong cách xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Không tài, không độc đáo mà lần lượt đánh bại Pháp, Nhật, Mỹ, Tàu, Pôn Pốt để bảo vệ tổ quốc; không tài không độc đáo mà xây dựng một Việt Nam có cơ đồ to lớn như hôm nay. Nên nhớ, sau khi mới giải phóng, quy mô nền kinh tế Việt Nam đứng thứ 180/190 nước, và bây giờ Việt Nam năm trong 31 nền kinh tế lớn nhất thế giới, thu nhập thuộc hàng trung bình, đến cuối năm năm GDP bình quân đầu người khoảng 4000 USD, nếu tính theo giá sức mua tương đương là khoảng 12.000 USD; quy mô nền kinh tế đến hết 2023 đứng thứ 3 Đông Nam Á (sau Indonesia và Thái Lan)…Đừng bảo Việt Nam là đói nghèo nữa, có thể so với một số quốc gia phát triển thì chúng tôi chưa bằng nhưng đem so với đám ăn bám, ký sinh trùng trên cơ thể ngoại bang, khát nước toàn tập thì chúng tôi là ánh trăng rằm còn các người chưa bằng con đom đóm, lập lòe, lúc ẩn lúc hiện.

Thứ tư, các ngươi thôi kêu gào “lấy lại đất tổ, không làm khổ dân”!

Nước Việt hùng anh và đời đời văn hiến vẫn đang thuộc quyền làm chủ của cháu Hồng, con Lạc, có mất cho Tây, cho tàu đâu mà “phục quốc” mà kêu gào “lấy lại đất tổ”. Câu đó phải để những người cộng sản nói, không có cộng sản thì lấy ai đánh Pháp, đuổi Mỹ để lấy lại đất tổ trong tay ngoại bang, không có cộng sản Việt Nam thì lấy ai giữ vững chủ quyền khi mà các ngươi đã từng hiến miền Nam Việt Nam cho Mỹ, làm mất rất nhiều đảo vào tay Campuchia, Đài Loan, Malaysia ở Trường Sa và vùng biển phía Nam, và mất cả quần đảo Hoàng Sa 1974; những đảo đó, nếu lấy lại được thì chắc chắn cũng chỉ có những người cộng sản Việt Nam mới đủ tư cách và trí tuệ, hào khí để lấy lại trong tương lai.

Những kẻ 49 năm quan vẫn chống phá quê hương đất nước, vẫn hận thù, hằn học với sự phát triển của đất nước mới là giống vô loài (tất nhiên chỉ là thiểu số). Dân tộc Việt Nam đoàn kết dưới ánh sáng của ngọn đuốc vĩnh cửu do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, soi đường; quốc dân đồng bào ta vẫn luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng quang vinh. Chúng tôi vẫn nắm tay nhau sánh bước tiến lên, mặc cho đàn chó bên đường vẫn sủa những tiếng thất thanh./.

NVI41 - PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC LÀ “ĐẤU ĐÁ NỘI BỘ, PHE CÁNH”

 

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng những vấn đề được dư luận xã hội quan tâm để tung ra các luận điệu sai trái, xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông xã hội, nhất là về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta. Chúng rêu rao rằng, “đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên là “đấu đá nội bộ, phe cánh”, “thanh trừng phe phái”…(?!). Đây là thủ đoạn hết sức thâm độc, nhằm làm giảm sút uy tín của Đảng. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân cần tỉnh táo, nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn trên, đồng thời phải tích cực đấu tranh phản bác.

Cần “phương thuốc đặc trị” cho căn bệnh tham nhũng

“Bệnh tham nhũng” trong cán bộ, đảng viên được Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn đạt trong một thuật ngữ chung nhất là tham ô. Người cho rằng: “Tham ô là hành động xấu xa nhất, tội lỗi, đê tiện nhất trong xã hội. Tham ô là trộm cắp của công, chiếm của công làm của tư. Nó làm hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà; hại đến công việc cải thiện đời sống của nhân dân; hại đến đạo đức cách mạng của người cán bộ và công nhân”. Đó là “giặc nội xâm”, là loại giặc “vô hình, vô cảm”, là “kẻ địch trong người, trong nội bộ” vô cùng nguy hiểm. Nó “luôn luôn lẩn lút trong mình ta”, “khó thấy, khó biết”; đó là “một cuộc chiến đấu khổng lồ” để “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”.

Để phòng, chống tham nhũng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, cần phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng và Chính phủ; cần xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; phải làm cho quần chúng nhân dân khinh ghét, xa lánh tham ô, lãng phí; kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”; mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân,…

Đại hội lần thứ XII của Đảng nhận định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí”.

Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa của Đảng và chế độ ta”.

Như vậy, việc kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra; từ vị thế, uy tín của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng; từ đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng trong sạch, vững mạnh, đủ sức chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ vinh quang. Việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không làm cho nội bộ mất đoàn kết, không phải giữa các “phe cánh”, mà góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, Điều lệ của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng; tăng cường đoàn kết, gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân; thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững, củng cố niềm tin vững chắc của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. 

Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh

Hiện nay, bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt còn gay gắt, phức tạp hơn, nhất là tình trạng tham nhũng, tiêu cực diễn biến ngày càng phức tạp, tinh vi, còn xảy ra ở nhiều nơi, ở hầu hết các lĩnh vực… Thực tế đó đòi hỏi phải tiếp tục giương cao ngọn cờ đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đồng thời, đập tan luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Một là, đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng để tăng cường sức mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh tư tưởng: “Nhất hô bá ứng”, “Tiền hô hậu ủng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt” để nói lên sự đoàn kết, thống nhất về nhận thức, hành động, vì sự nghiệp cách mạng chung và công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nói riêng. Theo đó, trong chính nội bộ Đảng phải trên dưới đồng chí, đồng lòng, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với mọi biểu hiện của tham nhũng, tiêu cực; tránh nói khác, làm khác với quan điểm, chủ trương của Đảng về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, cần gạt bỏ chủ nghĩa cá nhân, giữ gìn đạo đức cách mạng trong sáng, hết lòng, hết sức vì nhiệm vụ chung.

Hai là, phát huy vai trò nêu gương của lãnh đạo chủ chốt các cấp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Lãnh đạo chủ chốt các cấp phát huy vai trò nêu gương trong công việc, đời sống, sinh hoạt hằng ngày, phải thực sự liêm khiết, chính trực, nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều; nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý cơ quan, đơn vị, địa phương; là hạt nhân đoàn kết, luôn đặt lợi ích của Đảng, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Khi phát hiện trong cơ quan, đơn vị, địa phương có dấu hiệu bè phái, cục bộ, nội bộ không đoàn kết, thống nhất, cần chấn chỉnh, xử lý dứt điểm,

Ba là, ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra, giám sát công tác đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ kiểm tra, giám sát là thanh bảo kiếm để chữa lành các vết thương. Theo đó, ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra, giám sát, nhất là tập trung vào những nội dung trọng tâm, trọng điểm dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực; nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp.Tiến hành kiểm tra, giám sát khách quan, công tâm, minh bạch, không được có động cơ cá nhân, áp đặt, bao che, đồng bộ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán của Nhà nước, điều tra, truy tố, xét xử.

Bốn là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tham khảo có chọn lọc mô hình, kinh nghiệm, cách thức phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở các nước trên thế giới… Trên cơ sở các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, cấp ủy các cấp cụ thể hóa vào điều kiện cụ thể ở từng cơ quan, đơn vị, địa phương; rà soát, điều chỉnh, bổ sung những quy định của đơn vị đúng với tinh thần chỉ đạo của Trung ương; phát huy vai trò, trách nhiệm của bộ phận tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trong phát hiện và lấp những “lỗ hổng” pháp lý để cán bộ, đảng viên không dám, không thể và không muốn tham nhũng, tiêu cực./.

 

 

NVI41 - ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO ĐỂ GÂY CHIA RẼ, KÍCH ĐỘNG BẠO LỰC Ở TÂY NGUYÊN

 

Khu vực Tây Nguyên có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đây cũng là một trong bốn vùng dân tộc, tôn giáo đặc thù của cả nước mà các thế lực thù địch ra sức lợi dụng để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá cách mạng Việt Nam. Thời gian tới, cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để giải quyết tận gốc việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo âm mưu gây chia rẽ, kích động bạo lực ở Tây Nguyên của các thế lực thù địch.

Khu vực Tây Nguyên hiện nay gồm 5 tỉnh (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng), là một trong bốn vùng dân tộc, tôn giáo đặc thù của cả nước. Tây Nguyên quy tụ cư dân của 54 dân tộc cùng chung sống, trong đó có 20 dân tộc tại chỗ và có tất cả các tôn giáo lớn ở Việt Nam hoạt động. Quá trình cộng cư đa dạng của các dân tộc đã tạo nên sự đa dạng về văn hóa và những giá trị đặc trưng cho khu vực Tây Nguyên. Tuy nhiên, trong tính đa dạng đó, Tây Nguyên đang phải đối phó với rất nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh, nhất là âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch nhằm chống phá Đảng, chống phá Nhà nước, gây bất ổn về chính trị - xã hội cho khu vực.

Gần đây nhất là hoạt động của các phần tử phản động tấn công vào hai xã Ea Ktur và Ea Tiêu thuộc huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk và đây là hoạt động khủng bố có tổ chức, được trang bị các loại vũ khí; hành vi rất manh động, liều lĩnh, man rợ, mất nhân tính. Việt Nam mạnh mẽ lên án các cá nhân, tổ chức đã dung túng, hậu thuẫn, chỉ đạo cũng như số đối tượng đã trực tiếp gây ra vụ việc này.

Có thể nhận thấy rằng, mục đích xuyên suốt của các thế lực thù địch là chống phá Đảng, chống phá Nhà nước để đi tới lật đổ chính quyền. Và để thực hiện được mục đích này, rất nhiều âm mưu, thủ đoạn, chiêu trò mới đã được các thế lực thù địch lợi dụng. Trong đó, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những vấn đề có tính nhạy cảm như dân tộc, tôn giáo, nhân quyền,... với âm mưu thâm độc là gây chia rẽ, bất ổn ở Tây Nguyên vốn là vùng đất có vị trí địa chiến lược đặc biệt quan trọng và cũng là nơi mà các vấn đề dân tộc, tôn giáo hiện hữu rất đặc trưng.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá ở Tây Nguyên

Thứ nhất, xây dựng vững chắc thế trận lòng dân ở khu vực Tây Nguyên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Sang giai đoạn đổi mới đất nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định: “Làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”. Do vậy, trong thời gian tới, Đảng bộ, chính quyền các cấp ở Tây Nguyên cần có chiến lược, định hướng nhằm phát huy hơn nữa thế trận lòng dân vào trong quá trình xây dựng, phát triển đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như bảo vệ vững chắc quê hương trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

Thứ hai, tiếp tục phát huy có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các tỉnh Tây Nguyên.

 1- Cần bám sát trình độ phát triển kinh tế, đặc trưng văn hóa, phong tục, tập quán của từng dân tộc để áp dụng các chính sách phù hợp; 2- Nghiên cứu kỹ khả năng tiếp nhận, chuẩn bị của mỗi dân tộc để đưa ra những định hướng đúng đắn cho đồng bào trong thực thi, vận hành chính sách; 3- Cần phân loại cụ thể các chính sách để thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, có hiệu quả, nhất là đối với những chính sách quan trọng, cấp bách; 4- Xây dựng lộ trình, kế hoạch và các yêu cầu cụ thể đối với từng chính sách để tiện theo dõi, đánh giá hoặc kịp thời điều chỉnh, bổ sung, phát triển cho phù hợp với đặc thù của từng dân tộc, từng địa phương.

Thứ ba, phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở trong đấu tranh vạch trần những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo của các thế lực thù địch.

Để phát huy vai trò, khả năng đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, chính quyền các cấp ở Tây Nguyên cần chăm lo kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở; đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, đảng viên là người đồng bào các dân tộc thiểu số; thường xuyên theo sát cơ sở, phát huy tinh thần đoàn kết của đồng bào trong thực thi các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương”. Đồng thời, tăng cường cán bộ có năng lực, phẩm chất đạo đức cho cơ sở, nhất là ở những địa bàn trọng điểm... Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số phải biết ngôn ngữ địa phương, am hiểu phong tục, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào; thực hiện tốt phong cách dân vận “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân”; không quan liêu, tham nhũng. Tích cực đổi mới công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo phương châm “chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc” phù hợp với đặc thù từng dân tộc./.

 

NVH41 - NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ QUỐC PHÒNG

 

Lợi dụng những vấn đề liên quan đến quốc phòng, các thế lực thù địch đã thực hiện nhiều hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc chống phá. Mục đích của chúng là nhằm kích động, lung lay niềm tin của nhân dân vào đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về sự nghiệp quốc phòng.

Nội dung luận điệu xuyên tạc trên lĩnh vực quốc phòng hiện nay hết sức đa dạng, với nhiều biểu hiện khác nhau. Tuy nhiên, mục tiêu chủ yếu của chúng vẫn là đòi “phi chính trị hóa” Quân đội, phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội; tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng quân đội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là “thế trận lòng dân”; xuyên tạc lịch sử và thực trạng tình hình biên giới, biển đảo; các hoạt động đối ngoại, nhất là đối ngoại quốc phòng…

Lợi dụng hoạt động đối ngoại diễn ra giữa Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam và ngài Kishi Nobuo, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Nhật Bản nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày 10 - 12/9 để góp phần phát triển mối quan hệ hợp tác quốc phòng giữa hai nước. Trên trang facebook “Việt Tân” đã đưa ra những bài viết xuyên tạc về mục đích của chuyến thăm rằng “Bộ trưởng Quốc Phòng Nhật Bản đã liên tiếp tái khẳng định quyết tâm của Tokyo trong việc giúp Hà Nội nâng cao năng lực đối phó với các hành vi chèn ép trên Biển Đông, không chỉ bằng lời nói suông, mà thông qua những hành động cụ thể…”. Đây là hành vi xuyên tạc trắng trợn về mối quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Nhật Bản, với ý đồ cố tình làm phức tạp thêm tình hình biên giới, biển đảo. Ở bài viết khác, chúng còn cố tình so sánh: “NGÂN SÁCH BỘ QUỐC PHÒNG GẦN BẰNG 11 LẦN BỘ GIÁO DỤC: PHÁT TRIỂN HAY MỊ DÂN?” và đưa ra luận điệu “xem việc trấn áp dân chúng là quốc sách thay vì dùng giáo dục để phát triển quốc gia”. Thực chất, chúng đang cố tình không hiểu về hoạt động quốc phòng, gây hoài nghi ở một bộ phận nhân dân để làm giảm uy tín của quân đội.

Trong đó, lực lượng tiến hành các hoạt động xuyên tạc trên lĩnh vực quốc phòng là những đối tượng phản động trong nước và ngoài nước, những kẻ cơ hội chính trị, thành phần bất mãn với chế độ, những kẻ ham lợi ích vật chất, bị thế lực thù địch móc nối, mua chuộc, dụ dỗ. Bên cạnh đó, cũng có một số người do kém hiểu biết, bị thiếu thông tin chính thống hoặc người bàng quan và thiếu ý thức chính trị đã có những hành động, phát ngôn không đúng, vô tình tiếp tay tuyên truyền cho các thế lực thù địch, phản động.

 Trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam, các thế lực thù địch xác định lĩnh vực quốc phòng là một trong những mục tiêu trọng yếu phải tập trung phá hoại, làm suy yếu. Ảo tưởng của chúng là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội. “Phi chính trị hóa” quân đội, làm cho quân đội xa rời mục tiêu, lý tưởng, mất phương hướng chính trị, không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ. Những thông tin và luận điệu xuyên tạc liên quan đến lĩnh vực quốc phòng mà các thế lực thù địch tung ra hoàn toàn là những thông tin vu khống, bịa đặt, không đúng sự thật về tình hình quốc phòng của đất nước. Đó là những thông tin vô căn cứ khoa học, thực tiễn, hoặc là những thông tin, luận điệu đổi trắng thay đen, thêu dệt, thổi phồng một cách vụng về, nhằm xuyên tạc bản chất sự việc, hướng người tiếp nhận thông tin suy diễn tiêu cực, kích động các hoạt động biểu tình, chống phá gây mất trật tự an ninh, an toàn xã hội.

Mục đích của những luận điệu xuyên tạc là làm xấu hình ảnh của Quân đội trước nhân dân, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Qua đó, tạo ra sự nghi ngờ, gây tâm lý hoang mang trong nhân dân, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo, cách thức giải quyết sự việc liên quan đến quốc phòng - an ninh của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, truyền bá tư tưởng, đạo đức, lối sống phương Tây vào Quân đội, làm cho cán bộ, chiến sĩ mơ hồ, lơi lỏng nhiệm vụ, rơi vào lối sống thực dụng, từng bước tác động nhằm làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và truyền thống tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ". Cùng với các hoạt động khác, mục tiêu cuối cùng của chúng là phủ định sự lãnh đạo của Đảng ta đối với Quân đội, vô hiệu hóa Quân đội khi đất nước có biến động.

Quán triệt quan điểm Đại hội XIII của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng: Củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó QĐND là nòng cốt. Do đó, công tác giáo dục, tuyên truyền cho nhân dân về lĩnh vực quốc phòng - an ninh phải luôn được coi trọng, phải làm cho nhân dân thấy rõ đâu là thông tin chính thống, đâu là thông tin bịa đặt, nhằm dụng ý xấu để cảnh giác. Việc làm này phải được tiến hành một cách kiên trì, bền bỉ, thường xuyên, liên tục, chú trọng những vùng có lịch sử chính trị - xã hội phức tạp, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi đông đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo sinh sống; địa bàn có vị trí chiến lược về quốc phòng - an ninh. Nhận diện, đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh là cuộc chiến lâu dài, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng. Trong đó, Quân đội nhân dân có vai trò rất quan trọng làm nòng cốt cho toàn dân là nhân tố trực tiếp trong đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

NVH41 - NĂM MƯƠI NĂM QUAN HỆ VIỆT NAM – AUSTRALIA NHÌN LẠI VÀ HƯỚNG TỚI

 

Năm 2023 đánh dấu 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Australia (26-2-1973 - 26-2-2023). Trên chặng đường nửa thế kỷ qua, quan hệ giữa hai nước đã trải qua những giai đoạn phát triển và đạt được nhiều thành tựu ấn tượng. Trong thời gian tới, trên nền tảng quan hệ đối tác chiến lược, hai nước tiếp tục cùng hướng tới tương lai với sự hợp tác ngày càng chặt chẽ, thiết thực, đáp ứng nhu cầu của mỗi nước cũng như thích ứng với bối cảnh tình hình mới của khu vực và thế giới.

Xây dựng tình hữu nghị, bồi đắp nền tảng hợp tác chính trị

Cho đến nay, mỗi khi nhắc đến cầu Mỹ Thuận - cây cầu dây văng đầu tiên ở Việt Nam bắc qua sông Tiền, nối hai tỉnh Tiền Giang và Vĩnh Long, người dân Việt Nam đều nhớ đến và dành nhiều tình cảm tốt đẹp cho những người bạn Australia. Được khánh thành vào năm 2000, cầu Mỹ Thuận không chỉ có giá trị kiến trúc độc đáo, thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, mà còn là biểu tượng của tình đoàn kết, hữu nghị Việt Nam - Australia. Trong hàng chục năm qua, Australia là một trong những quốc gia cung cấp vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hàng đầu cho Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lĩnh vực đa dạng, từ xây dựng kết cấu hạ tầng cho đến thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn với nhiều dự án, công trình thiết thực có lợi cho sự phát triển bền vững của Việt Nam.

Tình đoàn kết, hữu nghị giữa hai nước được khởi nguồn từ di sản của cựu Thủ tướng Australia Gough Whitlam khi Chính phủ Công Đảng của Thủ tướng G. Whitlam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày 26-2-1973. Năm 2009, hai nước đã thiết lập quan hệ đối tác toàn diện nhân chuyến thăm Australia của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh. Đến nay, có thể thấy tầm nhìn của lãnh đạo hai nước về mối quan hệ Australia - Việt Nam gắn liền với lợi ích chung đã dần được hiện thực hóa.

Quan hệ Việt Nam - Australia trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, phản ánh quá trình thay đổi chiến lược và xu thế vận động không ngừng của cục diện thế giới. Hiện nay, mối quan hệ này là biểu hiện cụ thể của xu hướng tăng cường hợp tác, xử lý hòa bình các “điểm nóng”, chuyển từ đối đầu sang đối thoại, vì hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Quan hệ Việt Nam - Australia cũng là minh chứng cho sự chuyển hướng chiến lược quan hệ quốc tế từ sau Chiến tranh lạnh đến nay khi các nước trên thế giới đã chuyển trọng tâm từ đối đầu về tư tưởng - ý thức hệ sang đối thoại và đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế. Trong những năm qua, quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai nước luôn phát triển mạnh mẽ và tích cực trên cơ sở bồi đắp của mối quan hệ chính trị bền chặt, tin cậy lẫn nhau.

Năm 1986, Văn kiện Đại hội VI của Đảng nêu rõ: “Nhà nước ta chủ trương tăng cường và mở rộng quan hệ hữu nghị với Thụy Điển, Phần Lan, Pháp, Ô-xtrây-li-a, Nhật Bản và các nước phương Tây khác trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi”(1). Trong các kỳ đại hội Đảng tiếp theo, khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Australia nói riêng luôn nằm trong hướng ưu tiên triển khai đường lối đối ngoại của Việt Nam.

Tháng 9-2009, nhân dịp Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm chính thức Australia, hai nước đã thiết lập mối quan hệ “đối tác toàn diện” nhằm củng cố và tăng cường hợp tác giữa hai bên trên một số lĩnh vực chủ chốt, như mở rộng quan hệ chính trị và trao đổi chính sách công, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển thương mại, hỗ trợ hợp tác và phát triển công nghệ, xây dựng mối quan hệ quốc phòng - an ninh, hỗ trợ liên kết người dân với người dân, đẩy mạnh triển khai các chương trình nghị sự khu vực và toàn cầu. Đây được xem là dấu mốc đột phá đầu tiên trong quan hệ chính trị giữa hai nước.

Tháng 3-2015, hai nước ký kết Tuyên bố về quan hệ đối tác toàn diện tăng cường, trong đó nhấn mạnh đến lợi ích qua lại về tăng trưởng kinh tế, ổn định và an ninh khu vực. Tháng 3-2018, hai nước chính thức nâng cấp quan hệ lên “đối tác chiến lược”, mở ra trang mới trong quan hệ song phương. Hiện tại, Việt Nam đặt vị trí của Australia trong thứ tự ưu tiên đối ngoại ngang bằng các nước chủ chốt ở châu Âu là Anh, Pháp, Đức và hai nước hàng đầu châu Á là Nhật Bản và Hàn Quốc. Ý tưởng hướng tới nâng cấp lên quan hệ “đối tác chiến lược toàn diện” đã được hai nước công bố nhân chuyến thăm Australia của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ vào tháng 12-2022, đồng thời được nhắc lại trong cuộc hội đàm giữa Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và Toàn quyền Australia David Hurley, nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam của Toàn quyền Australia vào tháng 4-2023.

Bên cạnh đó, hai bên thường xuyên có những cuộc trao đổi, tiếp xúc cấp cao và các cấp. Các cơ chế hợp tác song phương được duy trì đều đặn. Hai bên cũng phối hợp trong Chương trình hành động triển khai quan hệ đối tác chiến lược giai đoạn 2020 - 2023 và đạt được nhiều kết quả cụ thể. Hiện nay, hai bên phối hợp tổ chức nhiều hoạt động chào mừng 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.

Về quan hệ đối ngoại đảng, hiện nay, Đảng ta duy trì quan hệ hữu nghị với ba chính đảng tại Australia, gồm Công đảng cầm quyền, Đảng Tự do đối lập và Đảng Cộng sản Australia. Sau cuộc tổng tuyển cử vào tháng 5-2022 của Australia, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gửi điện chúc mừng lãnh đạo Công đảng sau thắng lợi tại cuộc bầu cử và trở thành Thủ tướng của Australia. Nhân dịp hai nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Anthony Albanese cũng đã trao đổi thư chúc mừng.

Các hoạt động đối ngoại cấp cao trong thời gian qua đã góp phần củng cố sự tin cậy chính trị giữa hai nước, trong đó đặc biệt là chuyến thăm Việt Nam của Toàn quyền Australia David Hurley vào tháng 4-2023. Bên cạnh đó, tháng 6-2023, Thủ tướng Australia Anthony Albanese đã có chuyến thăm chính thức Việt Nam. Đây là chuyến thăm chính thức đầu tiên của ông A. Albanese tới Việt Nam kể từ khi nhậm chức, điều này thể hiện sự coi trọng của Australia trong quan hệ với Việt Nam. Những chuyến thăm đều mang ý nghĩa biểu tượng kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, đồng thời góp phần tăng cường gắn kết, củng cố lòng tin chiến lược giữa hai quốc gia.

Về hợp tác khu vực, Việt Nam và Australia đã hợp tác rất hiệu quả tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu (ASEM), Liên hợp quốc... Việt Nam  ủng hộ Australia ứng cử vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2013 - 2014 và Hội đồng Tổ chức Hàng hải thế giới (IMO) nhiệm kỳ 2016 - 2017. Còn Australia ủng hộ Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016 và nhiệm kỳ 2023 - 2025, thành viên Hội đồng chấp hành Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) nhiệm kỳ 2015 - 2019 và Hội đồng Kinh tế và xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 - 2018; Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 và thành viên Hội đồng Điều hành Liên minh Bưu chính thế giới (IPU) nhiệm kỳ 2017 - 2021. Hai nước hiện đang đảm nhiệm vị trí đồng Chủ tịch Chương trình Đông Nam Á của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) giai đoạn 2022 - 2025.

Chặng đường 50 năm hợp tác ấn tượng

Nhìn lại chặng đường hợp tác 50 năm qua, có thể thấy, quan hệ Việt Nam - Australia đã đạt được nhiều bước tiến lớn. Hai nước đều có vị thế quan trọng trong chiến lược đối ngoại của nhau. Về mặt địa - chính trị, Australia rất coi trọng Việt Nam, bởi: Một là, Việt Nam có vị trí địa - chiến lược ở Đông Nam Á, là nơi giao thoa ảnh hưởng và ngày càng thu hút nhiều sự quan tâm của các nước lớn trên thế giới; hai là, Việt Nam xử lý hài hòa mối quan hệ với Trung Quốc - một nước láng giềng lớn và là đối tác kinh tế lớn nhất của Australia. Do vậy, Australia rất coi trọng vai trò của Việt Nam trong chính sách đối ngoại với khu vực.

Về phía Việt Nam, đẩy mạnh hợp tác với Australia cũng tạo điều kiện gia tăng lợi ích trên nhiều lĩnh vực.

Về kinh tế, cho tới nay, Việt Nam là một nền kinh tế lớn ở Đông Nam Á. Thủ tướng Australia G. Whitlam từng nhận định rằng, cam kết hợp tác ngoại giao của Australia với Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và đầu tư của Australia vào Việt Nam và trên thực tế, tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây ngày càng trở nên mạnh mẽ. Việt Nam nổi lên như là một trong những động lực kinh tế mới của châu Á, vươn lên trở thành một quốc gia có mức thu nhập trung bình và đang trở thành một trung tâm sản xuất lớn trong khu vực do có nguồn lao động với giá cả cạnh tranh. Chính nhờ những yếu tố này, quan hệ kinh tế Việt Nam - Australia có những bước tiến mạnh mẽ trong giai đoạn gần đây. Kim ngạch thương mại song phương đạt mức tăng trưởng tốt: năm 2022 đạt 15,7 tỷ USD (tăng 26,7% so với năm 2021), trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 5,6 tỷ USD (tăng 26,2% so với năm 2021) và kim ngạch nhập khẩu đạt 10,1 tỷ USD (tăng 27,3% so với năm 2021). Nhập siêu của Việt Nam từ Australia đạt 4,6 tỷ USD (tăng 28,7% so với năm 2021).


NVH41 - LẬT TẨY LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC

 

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tung ra các bài viết xuyên tạc, phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Đặc biệt, khi tình hình trên Biển Đông có những diễn biến phức tạp hay đến dịp kỷ niệm các sự kiện lịch sử xảy ra trên biển, đảo thì ngay lập tức, trên các báo, đài ở nước ngoài như BBC, RFA, RFI, các trang web, mạng xã hội của các tổ chức, đối tượng phản động lại tăng cường phát tán tài liệu, hình ảnh, video xuyên tạc về vấn đề này.

Những luận điệu xuyên tạc

Cứ đến ngày 14/3 hằng năm, một số đối tượng, tổ chức chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam lại tung những hình ảnh, video clip ghi lại phát biểu của chuyên gia này, chuyên gia kia hoặc áp đặt ý kiến chủ quan, cho rằng trận chiến bảo vệ chủ quyền ở Trường Sa ngày 14/3/1988, Việt Nam mất Gạc Ma là do có lệnh không được nổ súng, bưng bít thông tin chuyện mất đảo….

Đây là những luận điệu xuyên tạc, quy chụp, làm sai lệch bản chất, ý nghĩa của công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Chúng ta thấy rằng, không chỉ riêng sự kiện Gạc Ma ngày 14/3/1988 mà các sự kiện khác như: Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (17/2/1979), cuộc hải chiến Hoàng Sa (19/1/1974)…, các thế lực thù địch, phản động cũng luôn tìm cách xuyên tạc, bóp méo sự thật để lấy cớ kích động chống phá Đảng, Nhà nước.

Gần đây, các tổ chức phản động lưu vong tiếp tục lợi dụng sự kiện Trung Quốc điều tàu hải cảnh hoạt động bất hợp pháp tại bãi đá Tư Chính thuộc vùng thềm lục địa của Việt Nam để tuyên truyền những luận điệu sai trái, thù địch, quy chụp Đảng, Nhà nước “không lo bảo vệ biển đảo”, né tránh, lãng quên những vấn đề này; lấy cớ việc tổ chức “tưởng niệm” để lôi kéo, kích động chống phá, tổ chức các hoạt động tụ tập đông người, gây rối an ninh, trật tự tại các địa điểm công cộng trên địa bàn TP Hà Nội và một số thành phố lớn khác…

Lợi dụng vấn đề này, các đối tượng chống đối ở trong nước, các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài đã tiến hành lồng ghép, xuyên tạc, vu cáo chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước hòng làm sai lệch thông tin, tình hình về biển Đông và chủ trương nhất quán của Việt Nam trong quan hệ với các nước láng giềng trên biển; kêu gọi sự can thiệp của bên ngoài, đòi thả tự do cho những kẻ chống phá chính quyền đã bị pháp luật trừng trị. Thay vì tổ chức các hoạt động tưởng niệm tại nghĩa trang liệt sĩ hay một cơ sở thờ tự nào đó với mục đích, ý nghĩa nhân văn, hướng lòng tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thì số phản động, chống đối thường chọn “tưởng niệm” tại khu vực công cộng, nơi tập trung đông người nhằm phô trương thanh thế, gây rối trật tự, chống phá Đảng, Nhà nước. Mục đích nhằm lợi dụng danh nghĩa “tưởng niệm” để xuyên tạc, kích động, cổ súy các hành vi chống phá chính quyền, chia rẽ quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các nước láng giềng trên biển, tập dượt, tiến hành cuộc “cách mạng đường phố” nhằm tiến tới bạo loạn, lật đổ chính quyền nhân dân.

Lịch sử dựng nước, giữ nước đã chứng minh lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc Việt Nam. Khi chủ quyền lãnh thổ quốc gia đứng trước những thách thức hoặc bị xâm phạm, người dân đặc biệt quan tâm, thường xuyên dõi theo những thông tin liên quan và có các ý kiến thể hiện quan điểm góp phần bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Lợi dụng tâm lý này, các thế lực thù địch, các tổ chức phản động đã lồng ghép và đưa ra những thông tin xuyên tạc, sai sự thật hòng bẻ lái dư luận, kích động người dân thiếu hiểu biết nhằm xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, chia rẽ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước và làm ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam với quốc tế. Các đối tượng cũng tìm cách lồng ghép, quy chụp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, xuyên tạc lực lượng trực tiếp làm công tác bảo vệ chủ quyền như Hải quân, Cảnh sát biển, Kiểm ngư, cho rằng các lực lượng này “phản ứng chậm” hoặc “né tránh, không dám đối đầu, để chủ quyền lãnh thổ quốc gia và tính mạng của nhân dân bị đe dọa”.

Đây là những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận những thành quả đạt được và quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, nằm trong âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động. Bằng luận điệu xuyên tạc, đả kích, các thế lực xấu muốn làm lòng dân bất an, dần mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ mối quan hệ Việt Nam với các nước láng giềng, cần phải được nhận diện, lên án, đấu tranh kịp thời.

Tỉnh táo trong tiếp cận thông tin, không mắc mưu kẻ xấu

Thực tế, ngay sau sự kiện ngày 14/3/1988, Bộ Ngoại giao Việt Nam cùng các cơ quan chức năng của Việt Nam đã cực lực phản đối, tạo thành một phong trào mạnh mẽ nhất, khơi dậy ý chí, sự đồng lòng, đoàn kết và tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân. Từ tháng 2 đến tháng 6/1988, rất nhiều bài viết được đăng tải trên các báo và phát sóng trên đài khẳng định rõ quan điểm Việt Nam yêu cầu Trung Quốc phải chấm dứt ngay mọi hành động khiêu khích, xâm chiếm.

Trong và sau sự kiện Gạc Ma ngày 14/3/1988, các địa phương, đoàn thể trong cả nước hướng về Trường Sa mạnh mẽ. Đặc biệt, nhiều phóng viên báo chí theo các đoàn công tác đã trực tiếp ra Trường Sa để gặp gỡ nhân chứng, cung cấp cho độc giả, khán, thính giả trong nước và trên thế giới về hoạt động chiến đấu, hy sinh của các chiến sĩ ở quần đảo Trường Sa, truyền tải sự thật lịch về sự kiện này. Thực tế đó cho thấy, không có việc chúng ta bưng bít thông tin, che giấu sự việc trên đài, báo. Sự kiện Gạc Ma là một trang sử không thể nào quên trong công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc, nơi ghi dấu sự anh dũng chiến đấu, hy sinh cao cả của các chiến sĩ QĐND Việt Nam. Xung quanh sự kiện này, từ trước tới nay, Việt Nam đã khẳng định quan điểm nhất quán và các hành động cụ thể để giải quyết tranh chấp, bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng trên khu vực quần đảo Trường Sa.

Nhìn lại lịch sử, trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, biên giới phía Tây Nam và các cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo, Đảng, Nhà nước ta luôn thể hiện tinh thần quyết chí, đồng lòng, quyết tâm bảo vệ từng vùng đất, vùng biển, vùng trời của Tổ quốc. Trên thực tế, trong những thời điểm mà chủ quyền quốc gia trên Biển Đông bị đe dọa, Đảng, Nhà nước và toàn dân ta luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng lòng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, trong đó chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, về biện pháp tiến hành, cần phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo, linh hoạt, thực hiện “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong các tình huống cụ thể với mục tiêu cao nhất là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ gìn hoà bình, ổn định để phát triển.

Quan điểm, lập trường của Việt Nam về vấn đề Biển Đông, về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quốc gia theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) là rất rõ ràng và có đầy đủ cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn. Với những vấn đề còn tồn tại bất đồng, tranh chấp, Việt Nam nhất quán giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế. Là một quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã tham gia ký kết UNCLOS 1982, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp và nguyên tắc quan hệ quốc tế; kiên trì con đường giải quyết các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa bình, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và vì hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực, quốc tế.

Thời gian qua, trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch và các tổ chức phản động lưu vong, các phần tử bất mãn chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, các cơ quan chức năng, trong đó có báo chí, truyền thông đã tích cực tuyên truyền để người dân tỉnh táo hơn trong tiếp cận, đánh giá thông tin, sự việc, tránh mắc mưu kẻ xấu. Đảng, Nhà nước ta không bao giờ né tránh, lãng quên cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc, biên giới phía Tây Nam và các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống để bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tưởng nhớ các anh hùng, liệt sĩ, những người đã ngã xuống trong các cuộc chiến đấu bảo vệ bình yên bờ cõi, chủ quyền quốc gia bằng các hành động thiết thực.

Quan tâm tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về lịch sử các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta; quan tâm, chăm lo đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công; tuyên truyền khẳng định chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo, về đường lối đối ngoại…

Hơn lúc nào hết, mỗi người cần tỉnh táo trong tiếp nhận thông tin, nêu cao tinh thần cảnh giác, nhận diện rõ các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, kích động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử chống đối trong và ngoài nước. Mỗi chúng ta cần phải biết cách thể hiện lòng yêu nước, sự biết ơn đối với các anh hùng liệt sĩ theo đúng nghĩa, đúng cách, không để lòng yêu nước bị lợi dụng vào các mưu đồ chống phá Đảng, Nhà nước.   


NVH41 - Hai tổ chức khủng bố đang hoạt động ở Việt Nam

 

            Căn cứ pháp luật Việt Nam và quốc tế, Bộ Công an thông báo 2 tổ chức dưới đây đã và đang tiến hành hoạt động khủng bố:

          1.Thứ nhất:  Tổ chức khủng bố "Nhóm Hỗ trợ người Thượng" có tên tiếng Anh là "Montagnard Support Group, Inc.", viết tắt MSGI; do các đối tượng Y Mut Mlô và Y Duen Bdăp (nguyên là thành viên tổ chức "Quỹ người Thượng - MFI" ở Mỹ) tuyên bố thành lập năm 2011 nhằm móc nối, lôi kéo người dân tộc thiểu số sử dụng bạo lực, tiến hành khủng bố, kích động biểu tình, bạo loạn vũ trang đòi ly khai, tự trị, thành lập nhà nước riêng ở Tây Nguyên.

          - Trụ sở đặt tại: P.O.BOX 668843, Charlotte, NC 28266, USA; các kênh truyền thông gồm: "www.montagnardsupportgroup.blogspot.com"; "Montagnard Support Group".

          - Đối tượng cầm đầu, chỉ huy: Y Mut Mlô sinh năm 1960 tại Đắk Lắk (Chủ tịch); Y Duen Bdăp (Phó Chủ tịch); Y Bion Mlô (phụ trách đối ngoại); Y Lhưl Byă (phụ trách truyền thông) và các thành viên cốt cán khác gồm: Y Čhik Niê sinh năm 1968 tại Đắk Lắk; Y Chanh Byă sinh năm 1984 tại Đắk Nông; Y Bé Êban sinh năm 1982 tại Đắk Nông; Y Niên Êya sinh năm 1977 tại Đắk Nông, Y Sôl Niê sinh năm 1979 tại Đắk Lắk...

          - Sau khi thành lập tổ chức, thông qua Facebook, Y Mut Mlô thường xuyên tuyên truyền, lôi kéo H’Wuêñ Êban tham gia "Nhóm hỗ trợ người Thượng" và giao nhiệm vụ làm chỉ huy, lập nhóm vũ trang có tên "Khan Đêga" ("Lính Đêga"), xây dựng lực lượng ở Đắk Lắk, chọn căn cứ, chuẩn bị vũ khí, tìm kiếm, tuyển mộ thành viên và liên hệ, gặp gỡ những người do Y Mut Mlô chấm chọn để lôi kéo tham gia tổ chức, vận động các thành viên đóng góp tiền mua sắm vũ khí, tập luyện võ thuật nhằm chuẩn bị cho kế hoạch tấn công khủng bố.

          - Sau thời gian chuẩn bị, tháng 4/2023, "Nhóm hỗ trợ người Thượng" đã họp và thống nhất để nhóm "Lính Đêga" tấn công vào trụ sở cơ quan Nhà nước, giết hại cán bộ và người dân nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng; đồng thời giao cho Y Sôl Niê từ Mỹ xâm nhập về Việt Nam trực tiếp chỉ đạo. 

Thực hiện chỉ đạo của các đối tượng trên, trong hai ngày 7, 8/6/2023, nhóm "Lính Đêga" đã tổ chức đột nhập vào doanh trại của Lữ đoàn 198 để cướp vũ khí, giết bộ đội nhưng không thành công. 

          - Rạng sáng ngày 11/6/2023, các đối tượng chia thành 2 nhóm mang theo 4 khẩu súng AR15; 01 khẩu AK; 2 khẩu CKC; 2 khẩu Klip; 5 khẩu súng thể thao; 2 khẩu CPC, 1 khẩu súng ngắn Klip; 01 quả lựu đạn, 40 viên đạn AK, 400 viên đạn AR15 và một số loại đạn khác tấn công vào trụ sở Ủy ban nhân dân 2 xã Ea Tiêu và Ea Ktur (thuộc huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk), giết hại 4 cán bộ Công an; 1 đồng chí Bí thư xã, 1 đồng chí Chủ tịch xã và 3 người dân; làm bị thương 2 cán bộ Công an xã, bắt cóc 3 người dân làm con tin; đốt, phá tài sản của Ủy ban nhân dân xã và người dân, gây thiệt hại trên 2,5 tỷ đồng.

          - Tháng 6/2023, cơ quan chức năng Việt Nam đã khởi tố, bắt tạm giam 2 đối tượng; ra quyết định truy nã 5 đối tượng là thành viên của tổ chức "Nhóm Hỗ trợ người Thượng" về các tội "Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân" và "Khủng bố" (theo Điều 113, Điều 299 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tháng 01/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đưa vụ án trên ra xét xử và tuyên phạt các bị cáo từ 09 năm tù giam đến chung thân.

          2. Thứ hai: Tổ chức khủng bố "Người Thượng vì công lý" có tên tiếng Anh là "Montagnard Stand for Justice - MSFJ", do các đối tượng Y Quynh Bdap, Y Phik Hdok, Y Pher Hdrue, Y Aron Êban, H’ Sarina Krong, H’ Tlun Bdap, Y Ruing Knul, H Mla Hdruẽ thành lập tháng 7/2019 tại Thái Lan và hoạt động tại Mỹ từ tháng 4/2023.

          - Trụ sở: Số 49/312 Kraorattana, Soi 6, Bang Rak Phatthana, huyện Bang Bua Thong, tỉnh Nonthaburi, 11110, Thái Lan; trang web và các kênh truyền thông: "msfjustice.org", "Montagnard Stand for Justice", "Người Thượng Vì Công Lý", "Klei Kpă Ênô Kơ Anak Cữ Chiăng", "BHRM Montagnards", "MSFJ TV".

          - Đối tượng cầm đầu, chỉ huy: Y Quynh Bdap sinh năm 1992 tại xã Ea Bhôk, huyện Cư Kuin, tỉnh Đăk Lăk, quốc tịch Việt Nam; Y Phik Hdok sinh năm 1993 tại buôn M’Duk, Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; Y Pher Hdrue sinh năm 1979 tại buôn Êa Khít, xã Êa Bhôk, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, H’ Biăp Krông sinh năm 1987 tại buôn Kwăng, xã Cư Bao, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk; Y Aron Êban sinh năm 1985 tại huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk...

          - MSFJ hoạt động theo phương thức tuyên truyền, lôi kéo, tuyển mộ thành viên, phân công nhiệm vụ, huấn luyện phương thức hoạt động; tài trợ tiền, chỉ đạo mua sắm vũ khí, phương tiện, tiến hành tấn công khủng bố, giết hại cán bộ và người dân, phá hoại tài sản của Nhà nước và nhân dân nhằm thành lập "Nhà nước riêng" ở Tây Nguyên.

          - Với phương thức này, ngay sau khi thành lập tổ chức "Người Thượng vì công lý", Y Quynh Bdap đã trực tiếp tuyển mộ Y Krông Phôk tham gia nhóm "Lính Đêga"; móc nối, liên lạc với số cầm đầu, cốt cán của nhóm "Lính Đêga", giới thiệu là chỉ huy của nhóm "Người Thượng vì công lý" đang đấu tranh bằng phương thức bạo động nhằm lập "Nhà nước Đêga" ở Việt Nam; hứa hẹn cung cấp tài chính, vũ khí, huấn luyện, trực tiếp chỉ đạo nhóm "Lính Đêga" tiến hành tấn công khủng bố trụ sở Ủy ban nhân dân 2 xã Ea Tiêu và Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk. 

          - Theo đó, rạng sáng ngày 11/6/2023, các đối tượng chia thành 2 nhóm mang theo 4 khẩu súng AR15; 1 khẩu AK; 2 khẩu CKC; 2 khẩu Klip; 5 khẩu súng thể thao; 2 khẩu CPC, 1 khẩu súng ngắn Klip; 1 quả lựu đạn, 40 viên đạn AK, 400 viên đạn AR15 và một số loại đạn khác để thực hiện vụ tấn công, giết hại 4 cán bộ Công an; 1 đồng chí Bí thư xã, 1 đồng chí Chủ tịch xã và 3 người dân; làm bị thương 2 cán bộ Công an xã, bắt cóc 3 người dân làm con tin; đốt, phá tài sản của Ủy ban nhân dân xã và người dân, gây thiệt hại trên 2,5 tỷ đồng.

          - Tháng 8/2023, cơ quan chức năng Việt Nam đã ra quyết định khởi tố, truy nã Y Quynh Bdap - thành viên của tổ chức khủng bố "Người Thượng vì công lý" về tội "Khủng bố" theo Điều 299 Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tháng 01/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đưa vụ án trên ra xét xử và tuyên phạt Y Quynh Bdap 10 năm tù giam.

          - "Nhóm Hỗ trợ người Thượng - MSGI" và "Người Thượng vì công lý - MSFJ" là tổ chức khủng bố, do đó, người nào có hành vi tham gia, tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục người khác tham gia, tài trợ, nhận tài trợ của "Nhóm Hỗ trợ người Thượng - MSGI" và "Người Thượng vì công lý - MSFJ"; tham gia các khóa đào tạo, huấn luyện do "Nhóm Hỗ trợ người Thượng - MSGI" và "Người Thượng vì công lý - MSFJ" tổ chức; hoạt động theo chỉ đạo của "Nhóm Hỗ trợ người Thượng - MSGI" và "Người Thượng vì công lý - MSFJ"… là phạm tội "Khủng bố", "Tài trợ khủng bố" và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam.

          Hai tổ chức khủng bố “Nhóm hỗ trợ người Thượng”, “Người Thượng vì công lý” chỉ đạo, tiến hành khủng bố tại huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk ngày 11/6/2023 “Nhóm Hỗ trợ người Thượng - MSGI" và "Người Thượng vì công lý - MSFJ" là tổ chức khủng bố. Công an tỉnh Lai Châu thông báo đến toàn thể cán bộ, công nhân viên chức và toàn thể người dân trên địa bàn tỉnh Lai Châu được biết, cảnh giác, không tin, không nghe theo luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của đối tượng xấu. Nếu người nào có hành vi tham gia, tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục người khác tham gia, tài trợ, nhận tài trợ của "Nhóm Hỗ trợ người Thượng - MSGI" và "Người Thượng vì công lý - MSFJ"; tham gia các khóa đào tạo, huấn luyện do "Nhóm Hỗ trợ người Thượng - MSGI" và "Người Thượng vì công lý - MSFJ" tổ chức, hoạt động theo chỉ đạo của "Nhóm Hỗ trợ người Thượng - MSGI" và "Người Thượng vì công lý - MSFJ"… là phạm tội "Khủng bố", "Tài trợ khủng bố" thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam.

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...