Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 4 tháng 3, 2024

NVH40 - Chuyển đổi tôn giáo và hoạt động di cư của người Mông ở Việt Nam

 

Hơn 30 năm trở lại đây, một bộ phận không nhỏ đồng bào dân tộc Mông ở nước ta chuyển đổi từ tín ngưỡng truyền thống sang đạo Tin lành và các hiện tượng tôn giáo mới có nguồn gốc từ Kitô giáo. Bài viết phân tích việc chuyển đổi tôn giáo này có liên quan đến hoạt động di cư tự do của người Mông. Từ đó khái quát một số vấn đề đáng quan tâm trong việc bảo đảm quyền tự do tôn giáo và quyền tự do cư trú của người dân; xử lý nghiêm minh các hoạt động lợi dụng tôn giáo gây bất ổn xã hội, xâm phạm an ninh quốc gia; ngăn ngừa các thế lực thù địch lợi dụng để kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa ly khai tự trị, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa và chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.

Chuyển đổi tôn giáo rõ ràng liên quan mật thiết đến hoạt động di cư của người Mông ở Việt Nam hiện nay. Sự đan quyện chặt chẽ của hai vấn đề do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là ba yếu tố kinh tế, tôn giáo và chính trị. Ngoại trừ yếu tố kinh tế, tương đối thuần túy trong một số trường hợp cụ thể, thì chuyển đổi tôn giáo và hoạt động di cư của người Mông ở nước ta gắn khá chặt với hai yếu tố tôn giáo và chính trị.

Nguyên nhân kinh tế của việc người Mông di cư nội địa cũng như xuyên biên giới biểu hiện khá rõ trong thời gian đầu của hoạt động này, chủ yếu từ giữa thập niên 80 đến giữa thập niên 90 thế kỷ XX. Cụ thể, vào những năm 1980, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng vùng kinh tế mới và phân bổ lại dân cư, khoảng 200 người Mông từ tỉnh Hoàng Liên Sơn (năm 1991 tách ra thành tỉnh Lào Cai và tỉnh Yên Bái) cùng với gần 1 triệu đồng bào nhiều dân tộc từ nhiều vùng miền đến định cư ở khu vực Tây Nguyên. Nhận thấy vùng đất Tây Nguyên dân cư thưa thớt, đất đai màu mỡ, dễ dàng phát triển kinh tế nông nghiệp, nâng cao đời sống vật chất, thông qua mối quan hệ với những người đồng tộc đi trước, cho nên từ năm 1986 đến năm 1991, một bộ phận nhỏ người Mông từ vùng miền núi phía Bắc di cư tự do vào khu vực Tây Nguyên, chủ yếu là tỉnh Đắc Lắk (đến năm 2003 tách thành tỉnh Đắc Lắk và tỉnh Đắc Nông). Khi ấy, khu vực này đất đai phì nhiêu, rừng giàu gỗ quý, dân cư thưa thớt. Với bộ phận người Mông vùng miền núi phía Bắc di cư sang Lào và Trung Quốc giai đoạn 1986-2010 cũng chủ yếu để có việc làm ổn định, thu nhập nâng cao, cuộc sống bảo đảm. 

Tuy nhiên, từ thập niên cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, bên cạnh yếu tố kinh tế, hoạt động di cư của người Mông còn liên quan mật thiết đến hai yếu tố tôn giáo và chính trị. Ngoại trừ một bộ phận thực hành tín ngưỡng truyền thống và theo Công giáo, hầu hết người Mông di cư liên quan đến đạo Tin lành và một số hiện tượng tôn giáo mới có nguồn gốc từ Kitô giáo. Để thu hút người tin theo, các nhà truyền đạo tích cực tuyên truyền mê tín dị đoan, kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa ly khai tự trị liên quan đến xưng vua, đón vua, thành lập “Vương quốc Mông”, “Nhà nước Mông”.  

Cần nhắc lại và nhấn mạnh, một trong những nguyên nhân quan trọng khiến đông đảo người Mông theo đạo Tin lành và các hiện tượng tôn giáo mới có nguồn gốc từ Kitô giáo xuất phát từ hiện tượng xưng vua và đón vua, một dạng “phong trào cứu thế” vừa xuất phát từ yếu tố tâm linh, vừa bắt nguồn từ chiều sâu lịch sử và tâm lý đặc thù của dân tộc Mông. “Vàng Chứ”/ “Vàng Trứ” (Vua Chủ/ Vương Chủ), trong quan niệm của người Mông là vua Mông giáng thế/ vua Mông giáng trần, từ đó xuất hiện tâm lý đón vua, xưng vua. Niềm tin hoang tưởng này hình thành ở người Mông vào khoảng thế kỷ XIX, trước hết từ vùng phía Nam Trung Quốc, xuất phát từ sự mặc cảm trước hoàn cảnh khó khăn thực tại, đan xen với niềm luyến tiếc quá khứ huy hoàng khi người Mông có Nhà nước Tam Miêu từng phát triển thịnh vượng trước khi bị nhà Hán tiêu diệt, ước mong người Mông sẽ thoát khỏi yếu thế và cô đơn, lép vế và chèn ép, sẽ có cuộc sống sung sướng hơn và tốt đẹp hơn khi một vị vua của họ rất tài giỏi xuất hiện theo truyền thuyết. Phong trào xưng vua, đón vua thường khởi đầu bằng việc một “nhà tiên tri” (thầy cúng hoặc người dân) bỗng nói rằng, vua Mông sắp xuất hiện để giúp người Mông đổi đời.

Cuối những năm 1980 đầu những năm 1990, khá nhiều cuộc xưng vua của người Mông nổi lên ở các tỉnh Điện Biên, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Hà Giang, Tuyên Quang, v.v.. Tại các địa phương này xuất hiện các “nhà tiên tri” người Mông tuyên truyền sẽ có mưa to gió lớn, nước sẽ dâng cao làm ngập lụt khắp nơi, vua Mông sẽ xuất hiện, ai muốn được cứu giúp phải tham gia lễ đón vua. Nhiều người Mông đã bỏ công việc, bán hết tài sản để đi đón vua. Triệt để khai thác tâm lý đón vua, nhóm cực đoan trong đạo Tin lành cùng các hiện tượng tôn giáo mới như Dương Văn Mình, Bà cô Dợ, Giê Sùa; các thế lực thù địch thông qua nhóm người Mông sống ở nước ngoài, các website phản động, các đài phát thanh ở Hoa Kỳ và ở Đông Nam Á như Philippin đã vận động, lôi kéo một bộ phận người Mông chuyển đổi tôn giáo, kích động chủ nghĩa ly khai tự trị, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chống phá chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, dẫn đến hoạt động di cư nội địa của đông đảo người Mông từ các địa phương vùng miền núi phía Bắc đến tỉnh Điện Biên, từ vùng miền núi phía Bắc đến khu vực Tây Nguyên, cũng như di cư xuyên biên giới từ các tỉnh miền núi phía Bắc sang Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Mianma với ý định thành lập “Vương quốc Mông”/ “Nhà nước Tam Miêu”. 

Tháng 3-2000, một số người Mông gửi “Tối hậu thư” đến chính quyền tỉnh Lai Châu đòi chia cắt lãnh thổ, lấy phần đất từ Cổng Trời (huyện Mường Lay) về phía Bắc cho tín đồ đạo Vàng Chứ. Tháng 5-2011, 7.000 người Mông từ các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Sơn La, Lào Cai, Lai Châu, Đắc Lắc và Đắc Nông đã bị các thế lực thù địch lôi kéo về tụ tập tại bản Huổi Khon, xã Nậm Kè, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên để đón vua và lập “Vương quốc Mông”. 300 lều lán bằng bạt được dựng để từng hộ dân người Mông vào ở, barie được lập tại hai đầu bản Huổi Khon với nhiều người được bố trí canh gác khiến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn diễn biến phức tạp.

Mặc dù vụ việc ở bản Huổi Khon, xã Nậm Kè, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên được chính quyền xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật, nhưng các thế lực thù địch vẫn tiếp tục tuyên truyền, kích động chủ nghĩa ly khai và chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong một bộ phận đồng bào dân tộc Mông ở vùng miền núi phía Bắc, nhất là nhóm chuyển đổi sang đạo Tin lành và các hiện tượng tôn giáo mới có nguồn gốc từ Kitô giáo. Tháng 2-2020, một bộ phận người Mông trên địa bàn tỉnh Lai Châu, nhất là hai bản Ngài Phố và Giàng Ly Cha, xã Tà Tổng, huyện Mường Tè, bị các thế lực thù địch kích động âm mưu thành lập “Vương quốc Mông”/ “Nhà nước Tam Miêu”, lấy đạo Tin lành làm quốc đạo.

Đáng chú ý, một bộ phận người Mông ở vùng miền núi phía Bắc, nhất là các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Nghệ An, trong hơn 30 năm gần đây, liên tục bị các thế lực thù địch lường gạt vượt biên sang Lào, sau đó sang Thái Lan và Mianma với những lời hứa hẹn sẽ được đưa sang Mỹ và các nước phương Tây để có cuộc sống sung sướng và tốt đẹp. Nhưng trên thực tế, đa số đồng bào Mông phải cư trú lâu dài trong các trại tị nạn ở Thái Lan và Mianma với điều kiện sống thiếu thốn và khó khăn, là những hình ảnh bị các thế lực thù địch khai thác để cáo buộc Việt Nam vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo của người dân, nhất là dân tộc thiểu số tin theo các tổ chức tôn giáo nhóm nhỏ.

Thời gian qua, việc chuyển đổi tôn giáo và hoạt động di cư của dân tộc Mông được chính quyền các cấp giải quyết tương đối ổn thỏa, giúp đồng bào ổn định cuộc sống, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, trong bối cảnh hai hoạt động nêu trên vẫn còn những điểm khá phức tạp liên quan đến chính trị - xã hội đất nước. Đây là một trong những nguyên cớ để Hoa Kỳ cáo buộc Việt Nam vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo, đưa nước ta vào “Danh sách các nước cần theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo” từ năm 2022.

Bên cạnh việc bảo đảm quyền tự do tôn giáo và quyền tự do cư trú của người dân, xử lý nghiêm minh các hoạt động lợi dụng tôn giáo gây bất ổn xã hội, chống phá cách mạng và xâm phạm an ninh quốc gia, chính quyền các cấp, nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc giáp biên giới Việt - Lào và Việt - Trung, chúng ta cần chú trọng hơn nữa công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, giáo dục tinh thần yêu nước và ý thức công dân cho đồng bào dân tộc Mông, nhất là bộ phận chuyển đổi tôn giáo, để đồng bào ý thức rõ về Việt Nam là Tổ quốc của mình, và việc chung tay xây dựng đất nước công bằng, dân chủ, văn minh, giàu mạnh là trách nhiệm chung của mọi người dân Việt Nam, bất kể dân tộc đa số hay dân tộc thiểu số, không tạo cơ hội cho các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, vấn đề tôn giáo kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa ly khai tự trị, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa và chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...