Hơn 30 năm trở lại đây, một bộ phận không nhỏ đồng bào dân tộc Mông ở nước
ta chuyển đổi từ tín ngưỡng truyền thống sang đạo Tin lành và các hiện tượng
tôn giáo mới có nguồn gốc từ Kitô giáo. Bài viết phân tích việc chuyển đổi tôn
giáo này có liên quan đến hoạt động di cư tự do của người Mông. Từ đó khái quát
một số vấn đề đáng quan tâm trong việc bảo đảm quyền tự do tôn giáo và quyền tự
do cư trú của người dân; xử lý nghiêm minh các hoạt động lợi dụng tôn giáo gây
bất ổn xã hội, xâm phạm an ninh quốc gia; ngăn ngừa các thế lực thù địch lợi dụng
để kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa ly khai tự trị, chống phá chế
độ xã hội chủ nghĩa và chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chuyển đổi tôn
giáo rõ ràng liên quan mật thiết đến hoạt động di cư của người Mông ở Việt Nam
hiện nay. Sự đan quyện chặt chẽ của hai vấn đề do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ
yếu là ba yếu tố kinh tế, tôn giáo và chính trị. Ngoại trừ yếu tố kinh tế,
tương đối thuần túy trong một số trường hợp cụ thể, thì chuyển đổi tôn giáo và
hoạt động di cư của người Mông ở nước ta gắn khá chặt với hai yếu tố tôn giáo
và chính trị.
Nguyên nhân kinh
tế của việc người Mông di cư nội địa cũng như xuyên biên giới biểu hiện khá rõ
trong thời gian đầu của hoạt động này, chủ yếu từ giữa thập niên 80 đến giữa
thập niên 90 thế kỷ XX. Cụ thể, vào những năm 1980, thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng vùng kinh tế mới và phân bổ lại dân cư,
khoảng 200 người Mông từ tỉnh Hoàng Liên Sơn (năm 1991 tách ra thành tỉnh Lào
Cai và tỉnh Yên Bái) cùng với gần 1 triệu đồng bào nhiều dân tộc từ nhiều vùng
miền đến định cư ở khu vực Tây Nguyên. Nhận thấy vùng đất Tây Nguyên dân cư
thưa thớt, đất đai màu mỡ, dễ dàng phát triển kinh tế nông nghiệp, nâng cao đời
sống vật chất, thông qua mối quan hệ với những người đồng tộc đi trước, cho nên
từ năm 1986 đến năm 1991, một bộ phận nhỏ người Mông từ vùng miền núi phía Bắc
di cư tự do vào khu vực Tây Nguyên, chủ yếu là tỉnh Đắc Lắk (đến năm 2003 tách
thành tỉnh Đắc Lắk và tỉnh Đắc Nông). Khi ấy, khu vực này đất đai phì nhiêu,
rừng giàu gỗ quý, dân cư thưa thớt. Với bộ phận người Mông vùng miền núi phía
Bắc di cư sang Lào và Trung Quốc giai đoạn 1986-2010 cũng chủ yếu để có việc
làm ổn định, thu nhập nâng cao, cuộc sống bảo đảm.
Tuy nhiên, từ
thập niên cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, bên cạnh yếu tố kinh tế, hoạt động
di cư của người Mông còn liên quan mật thiết đến hai yếu tố tôn giáo và chính
trị. Ngoại trừ một bộ phận thực hành tín ngưỡng truyền thống và theo Công giáo,
hầu hết người Mông di cư liên quan đến đạo Tin lành và một số hiện tượng tôn
giáo mới có nguồn gốc từ Kitô giáo. Để thu hút người tin theo, các nhà truyền
đạo tích cực tuyên truyền mê tín dị đoan, kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan,
chủ nghĩa ly khai tự trị liên quan đến xưng vua, đón vua, thành lập “Vương quốc
Mông”, “Nhà nước Mông”.
Cần nhắc lại và
nhấn mạnh, một trong những nguyên nhân quan trọng khiến đông đảo người Mông
theo đạo Tin lành và các hiện tượng tôn giáo mới có nguồn gốc từ Kitô giáo xuất
phát từ hiện tượng xưng vua và đón vua, một dạng “phong trào cứu thế” vừa xuất
phát từ yếu tố tâm linh, vừa bắt nguồn từ chiều sâu lịch sử và tâm lý đặc thù
của dân tộc Mông. “Vàng Chứ”/ “Vàng Trứ” (Vua Chủ/ Vương Chủ), trong quan niệm
của người Mông là vua Mông giáng thế/ vua Mông giáng trần, từ đó xuất hiện tâm
lý đón vua, xưng vua. Niềm tin hoang tưởng này hình thành ở người Mông vào
khoảng thế kỷ XIX, trước hết từ vùng phía Nam Trung Quốc, xuất phát từ sự mặc
cảm trước hoàn cảnh khó khăn thực tại, đan xen với niềm luyến tiếc quá khứ huy
hoàng khi người Mông có Nhà nước Tam Miêu từng phát triển thịnh vượng trước khi
bị nhà Hán tiêu diệt, ước mong người Mông sẽ thoát khỏi yếu thế và cô đơn, lép
vế và chèn ép, sẽ có cuộc sống sung sướng hơn và tốt đẹp hơn khi một vị vua của
họ rất tài giỏi xuất hiện theo truyền thuyết. Phong trào xưng vua, đón vua
thường khởi đầu bằng việc một “nhà tiên tri” (thầy cúng hoặc người dân) bỗng
nói rằng, vua Mông sắp xuất hiện để giúp người Mông đổi đời.
Cuối những năm
1980 đầu những năm 1990, khá nhiều cuộc xưng vua của người Mông nổi lên ở các
tỉnh Điện Biên, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Hà Giang, Tuyên Quang, v.v.. Tại các
địa phương này xuất hiện các “nhà tiên tri” người Mông tuyên truyền sẽ có mưa
to gió lớn, nước sẽ dâng cao làm ngập lụt khắp nơi, vua Mông sẽ xuất hiện, ai
muốn được cứu giúp phải tham gia lễ đón vua. Nhiều người Mông đã bỏ công việc,
bán hết tài sản để đi đón vua. Triệt để khai thác tâm lý đón vua, nhóm cực đoan
trong đạo Tin lành cùng các hiện tượng tôn giáo mới như Dương Văn Mình, Bà cô
Dợ, Giê Sùa; các thế lực thù địch thông qua nhóm người Mông sống ở nước ngoài,
các website phản động, các đài phát thanh ở Hoa Kỳ và ở Đông Nam Á như
Philippin đã vận động, lôi kéo một bộ phận người Mông chuyển đổi tôn giáo, kích
động chủ nghĩa ly khai tự trị, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chống phá chính sách
đại đoàn kết toàn dân tộc, dẫn đến hoạt động di cư nội địa của đông đảo người
Mông từ các địa phương vùng miền núi phía Bắc đến tỉnh Điện Biên, từ vùng miền
núi phía Bắc đến khu vực Tây Nguyên, cũng như di cư xuyên biên giới từ các tỉnh
miền núi phía Bắc sang Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Mianma với ý định thành lập
“Vương quốc Mông”/ “Nhà nước Tam Miêu”.
Tháng 3-2000,
một số người Mông gửi “Tối hậu thư” đến chính quyền tỉnh Lai Châu đòi chia cắt
lãnh thổ, lấy phần đất từ Cổng Trời (huyện Mường Lay) về phía Bắc cho tín đồ
đạo Vàng Chứ. Tháng 5-2011, 7.000 người Mông từ các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang,
Sơn La, Lào Cai, Lai Châu, Đắc Lắc và Đắc Nông đã bị các thế lực thù địch lôi
kéo về tụ tập tại bản Huổi Khon, xã Nậm Kè, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên để
đón vua và lập “Vương quốc Mông”. 300 lều lán bằng bạt được dựng để từng hộ dân
người Mông vào ở, barie được lập tại hai đầu bản Huổi Khon với nhiều người được
bố trí canh gác khiến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn diễn biến phức
tạp.
Mặc dù vụ việc ở
bản Huổi Khon, xã Nậm Kè, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên được chính quyền xử
lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật, nhưng các thế lực thù địch vẫn tiếp
tục tuyên truyền, kích động chủ nghĩa ly khai và chủ nghĩa dân tộc cực đoan
trong một bộ phận đồng bào dân tộc Mông ở vùng miền núi phía Bắc, nhất là nhóm
chuyển đổi sang đạo Tin lành và các hiện tượng tôn giáo mới có nguồn gốc từ
Kitô giáo. Tháng 2-2020, một bộ phận người Mông trên địa bàn tỉnh Lai Châu,
nhất là hai bản Ngài Phố và Giàng Ly Cha, xã Tà Tổng, huyện Mường Tè, bị các
thế lực thù địch kích động âm mưu thành lập “Vương quốc Mông”/ “Nhà nước Tam
Miêu”, lấy đạo Tin lành làm quốc đạo.
Đáng chú ý, một
bộ phận người Mông ở vùng miền núi phía Bắc, nhất là các tỉnh Lai Châu, Điện
Biên, Sơn La, Nghệ An, trong hơn 30 năm gần đây, liên tục bị các thế lực thù
địch lường gạt vượt biên sang Lào, sau đó sang Thái Lan và Mianma với những lời
hứa hẹn sẽ được đưa sang Mỹ và các nước phương Tây để có cuộc sống sung sướng
và tốt đẹp. Nhưng trên thực tế, đa số đồng bào Mông phải cư trú lâu dài trong
các trại tị nạn ở Thái Lan và Mianma với điều kiện sống thiếu thốn và khó khăn,
là những hình ảnh bị các thế lực thù địch khai thác để cáo buộc Việt Nam vi
phạm nhân quyền và tự do tôn giáo của người dân, nhất là dân tộc thiểu số tin
theo các tổ chức tôn giáo nhóm nhỏ.
Thời gian qua,
việc chuyển đổi tôn giáo và hoạt động di cư của dân tộc Mông được chính quyền
các cấp giải quyết tương đối ổn thỏa, giúp đồng bào ổn định cuộc sống, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, trong bối cảnh hai hoạt động nêu
trên vẫn còn những điểm khá phức tạp liên quan đến chính trị - xã hội đất nước.
Đây là một trong những nguyên cớ để Hoa Kỳ cáo buộc Việt Nam vi phạm nhân quyền
và tự do tôn giáo, đưa nước ta vào “Danh sách các nước cần theo dõi đặc biệt về
tự do tôn giáo” từ năm 2022.
Bên cạnh việc
bảo đảm quyền tự do tôn giáo và quyền tự do cư trú của người dân, xử lý nghiêm
minh các hoạt động lợi dụng tôn giáo gây bất ổn xã hội, chống phá cách mạng và
xâm phạm an ninh quốc gia, chính quyền các cấp, nhất là các tỉnh miền núi phía
Bắc giáp biên giới Việt - Lào và Việt - Trung, chúng ta cần chú trọng hơn nữa
công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, giáo dục
tinh thần yêu nước và ý thức công dân cho đồng bào dân tộc Mông, nhất là bộ
phận chuyển đổi tôn giáo, để đồng bào ý thức rõ về Việt Nam là Tổ quốc của
mình, và việc chung tay xây dựng đất nước công bằng, dân chủ, văn minh, giàu
mạnh là trách nhiệm chung của mọi người dân Việt Nam, bất kể dân tộc đa số hay
dân tộc thiểu số, không tạo cơ hội cho các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân
tộc, vấn đề tôn giáo kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa ly khai tự
trị, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa và chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét