Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 27 tháng 5, 2024

NVG40 - TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BỒI DƯỠNG TRỌNG DỤNG NHÂN TÀI

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh là Lãnh tụ thiên tài của Đảng và Nhân dân ta, là bậc thiên tài trong việc thu hút và trọng dụng nhân tài.

Việc trọng dụng nhân tài của Người đã tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, góp phần quan trọng vào việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Theo PGS. TS Lý Việt Quang, Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) ngay từ năm 1924, nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã mở 3 lớp huấn luyện chính trị cách mạng cho các thanh niên Việt Nam, với tổng số 75 học viên, trong đó phải kể đến các đồng chí như: Trần Phú, Nguyễn Lương Bằng, Phạm Văn Đồng….Từ những "hạt giống đỏ" này đã được nhân rộng để đào tạo, bồi dưỡng ra thêm nhiều nhân tài cho cách mạng Việt Nam.

Sáng suốt và chân thành, khoan dung và độ lượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp nhiều nhân tài "bung nở" tài năng, tìm thấy ý nghĩa đời mình trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc.

"Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam sau này, Bác Hồ chỉ ra rằng bồi dưỡng nhân tài phải trên phương diện cả về đức, về tài năng, cả phẩm chất, về ý trí, và bản lĩnh chính trị. Bác Hồ nói đến nhân tài thì không phải tài năng đơn thuần mà sau đó là một chỉnh thể của con người có cả đức, cả tài. Cái đức lớn nhất đó chính là phải vì sự nghiệp của đất nước, vì sự nghiệp của dân tộc, mang lại hạnh phúc cho Nhân dân. Phải mang tài ra phục vụ cho sự nghiệp cách mạng chứ không phải là chỉ dùng tài đó phục vụ cho bản thân. Quan niệm của Bác Hồ là như vậy."

Người cũng chỉ ra rằng, ngoài việc phát hiện, bồi dưỡng thì cũng cần phải chú trọng, quan tâm đến việc trọng dụng nhân tài. Trong việc này, quan điểm của Người là phải luôn rộng mở và tránh những thành kiến, hẹp hòi.

"Khi nói đến trọng dụng nhân tài, Bác Hồ cho rằng, trước hết là phải dùng đúng tài để phát huy được sở trường của người đó.

Thứ hai, Bác Hồ đặc biệt chú ý là cách ứng xử rất rộng mở và trân trọng. Kể cả những nhân sĩ, trí thức được đào tạo trong nhà trường của chế độ cũ nhưng không thành kiến về nguồn gốc gia đình họ, từ việc họ có phải đảng viên hay không mà quan trọng họ là người có tấm lòng yêu nước chân chính, có tấm lòng thương dân và phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và đem lại tự do cho Nhân dân thì vẫn trọng dụng họ. Ngoài ra, Bác cũng chỉ rõ, trong việc trọng dụng nhân tài thì phải tạo điều kiện để tài năng đó phát triển, ứng dụng được những khả năng, năng lực đó vào trong thực tiễn".

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề trọng dụng nhân tài. Người coi "Cán bộ là gốc của mọi việc", "Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém".

Sáng suốt và chân thành, khoan dung và độ lượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp nhiều nhân tài "bung nở" tài năng, tìm thấy ý nghĩa đời mình trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc.

 

NVG40 - TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ GƯƠNG MẪU CỦA CÁN BỘ CHÍNH TRỊ TRONG QUÂN ĐỘI

 

Vai trò gương mẫu của cán bộ chính trị luôn có tác động, ảnh hưởng tích cực đến cán bộ, chiến sĩ, cũng như vị thế, vai trò chủ trì về chính trị và chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị Quân đội. Vì vậy, học tập và làm theo những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò gương mẫu của cán bộ chính trị luôn có ý nghĩa thiết thực trong xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị.

Trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chủ tịch luôn đề cao vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên; theo Người: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Vì vậy, Người cặn dặn các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên phải: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Trong quá trình chỉ đạo xây dựng Quân đội ta ngay từ những ngày đầu, cùng với việc bố trí đội ngũ cán bộ chính trị để giữ vững “linh hồn, mạch sống” của Đảng trong Quân đội, Hồ Chí Minh cũng yêu cầu họ phải thật sự gương mẫu về mọi mặt, nhất là tư cách, đạo đức, lối sống và trong công việc để chỉ đạo, động viên, hướng dẫn cán bộ, chiến sĩ thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao.

Đối với cán bộ chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tư cách của chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội. Người chính trị viên tốt, thì bộ đội ấy tốt. Người chính trị viên không làm tròn nhiệm vụ, thì bộ đội ấy không tốt”. Vô luận ở cấp bậc nào, “người chính trị viên phải là người anh, người chị, người bạn của đội viên. Chưa làm được như vậy là chưa hết nhiệm vụ”. Bởi, cán bộ có thân đội viên như chân tay, thì đội viên mới thân cán bộ như ruột thịt. Có như thế thì chỉ thị, mệnh lệnh và kế hoạch cấp trên đưa xuống, đội viên sẽ tích cực và triệt để thi hành. Để phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cán bộ chính trị, Người chỉ rõ: “Chính trị viên phải làm người kiểu mẫu trong mọi việc”. Về mặt vật chất, chính trị viên phải luôn săn sóc đến đời sống sinh hoạt: ăn, mặc, ở, nghỉ, tập luyện, công tác, sức chiến đấu của bộ đội. Về mặt tinh thần, chính trị viên phải săn sóc để nâng cao kỷ luật, bài trừ hủ hóa, phát triển văn hóa và đường lối chính trị trong bộ đội. Mặt khác, để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, cán bộ chính trị “càng phải làm gương cho tất cả đảng viên, tất cả quần chúng noi theo”.

Thấm nhuần lời dạy của Người, lớp lớp đội ngũ cán bộ chính trị Quân đội luôn tự tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu giữ vững tư cách của người cán bộ chính trị; tuyệt đối trung thành và đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; luôn có hoài bão, lý tưởng sống đúng đắn, lối sống trong sáng, lành mạnh, trung thực, khiêm tốn, giản dị; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân,... luôn là tấm gương mẫu mực để cán bộ, chiến sĩ học tập, noi theo.

Trong tình hình mới, đội ngũ cán bộ chính trị tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tạo nền tảng vững chắc để phấn đấu từ năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Việc thực hiện tốt vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ chính trị không những nâng cao vị thế, vai trò của cá nhân, hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị mà còn ngăn ngừa hiệu quả các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Do vậy, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò nêu gương của cán bộ chính trị trong giai đoạn hiện nay là vấn đề cấp thiết; cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung trọng tâm sau:

Trước hết, cần tạo sự thống nhất về nhận thức, trách nhiệm của các lực lượng về vai trò nêu gương của cán bộ chính trị. Cấp ủy, cán bộ chủ trì các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần coi việc thực hiện vai trò nêu gương là một nội dung trọng yếu của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị; một yêu cầu để đảm bảo cho đội ngũ này thực hiện tốt vai trò chủ trì về công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị. Do vậy, việc xác định những yêu cầu về nêu gương của cán bộ chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải gắn kết chặt chẽ với nội dung các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, nhất là: Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Bí thư, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm; Nghị quyết số 847-NQ/QUTW, ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới, v.v. Trên cơ sở đó, xác định rõ trách nhiệm của cấp ủy đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị các cấp trong xây dựng tiêu chí, quy định cụ thể về thực hiện vai trò nêu gương của chính ủy, chính trị viên trong các hoạt động ở đơn vị; đồng thời, làm tốt công tác giáo dục tạo sự thống nhất về nhận thức, trách nhiệm của các lực lượng đối với vấn đề này.

Hai là, coi trọng giáo dục, rèn luyện vai trò nêu gương của cán bộ chính trị trong quá trình đào tạo tại các học viện, nhà trường. Quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về giáo dục, đào tạo và thực hiện quan điểm “chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, các cơ sở đào tạo cán bộ chính trị, nhất là Học viện Chính trị và Trường Sĩ quan Chính trị cần nghiên cứu, hoàn thiện mục tiêu, yêu cầu đào tạo, chuẩn đầu ra của các đối tượng nhằm đào tạo những chính ủy, chính trị viên có phẩm chất, năng lực toàn diện, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu trong hoạt động thực tiễn.

Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, các học viện, nhà trường cần đổi mới mạnh mẽ, toàn diện cả về nội dung chương trình, phương pháp giáo dục và đào tạo đối với cán bộ chính trị. Kết hợp chặt chẽ giữa đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với nghiên cứu, cập nhật các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng vào hoạt động giáo dục, đào tạo nhằm thực hiện tốt yêu cầu về trang bị kiến thức, năng lực thực hành với bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống, vai trò gương mẫu của người cán bộ chính trị ngay tại trường. Trong đó, coi trọng việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa, thực hành nhằm hình thành vững chắc các phẩm chất, nhân cách và vai trò gương mẫu của người cán bộ chính trị trong thực tiễn.

Ba là, thường xuyên bồi dưỡng và phát huy vai trong nêu gương của cán bộ chính trị trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, chỉ huy ở đơn vị. Kết hợp chặt chẽ giữa “nói” và “làm” là một giá trị nổi bật trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực tiễn cho thấy, hành động nêu gương của người đứng đầu, dù nhỏ đều có tác động, ảnh hưởng lớn đến cấp dưới. Đồng thời, có coi trọng thực hiện vai trò nêu gương thì tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng mới đi vào cuộc sống ở mỗi đơn vị và lan tỏa trong xã hội. Do vậy, cấp ủy, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị các cấp cần quan tâm bồi dưỡng và phát huy tốt vai trò nêu gương của cán bộ chính trị trong các hoạt động thực tiễn, đảm bảo cho họ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Cần có cơ chế, chính sách và những biện pháp cụ thể để khích lệ, động viên vai trò nêu gương của họ; đồng thời, uốn nắn, điều chỉnh những nhận thức và biểu hiện sai trái, chưa phù hợp. Đặc biệt, cần phải coi trọng thực hiện tốt vai trò nêu gương của cấp trên đối với cấp dưới cả về lời nói và hành động để khích lệ việc học tập lẫn nhau về nêu gương trong các hoạt động lãnh đạo, quản lý, chỉ huy ở đơn vị.

Việc phát huy vai trò nêu gương trong các hoạt động đòi hỏi mỗi cán bộ chính trị phải luôn gương mẫu chấp hành nghiêm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Điều lệnh, kỷ luật của Quân đội; đặt lợi ích của tập thể, đơn vị lên trên hết, trước hết. Đồng thời, kiên quyết khắc phục các biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, mệnh lệnh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ.

Bốn là, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, “tự soi”, “tự sửa” và kiểm tra, giám sát việc thực hiện vai trò nêu gương của cán bộ chính trị. Thực hiện giải pháp này đòi hỏi mỗi cán bộ chính trị phải luôn lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền; bám sát sự chỉ đạo của trên; học hỏi từ đồng nghiệp để tiến hành tốt tự phê bình và phê bình, ‘‘tự soi, tự sửa’’ hằng ngày, không ngừng hoàn thiện về phẩm chất, đạo đức, lối sống, nhất là vai trò nêu gương trong thực tiễn. Coi trọng việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và tiếp thu những kiến thức trong lãnh đạo, quản lý để không ngừng hoàn thiện phương pháp, tác phong công tác, đáp ứng tốt các yêu cầu về thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ chính trị và yêu cầu xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan kiểm tra các cấp cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ chính trị. Nội dung kiểm tra, giám sát cần phải toàn diện cả về tư tưởng chính trị, động cơ, thái độ, năng lực công tác, phẩm chất đạo đức, lối sống và việc phát huy vai trò nêu gương trong các hoạt động. Quá trình thực hiện cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp ủy đảng, người chỉ huy, cơ quan chức năng và các tổ chức quần chúng tham gia; kết hợp chặt giữa công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng với công tác quản lý của người chỉ huy các cấp. Cùng với đó, lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức đối thoại dân chủ, lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức quần chúng đối với đội ngũ cán bộ chính trị, nhằm phát huy những ưu điểm, kịp thời phát hiện và đấu tranh có hiệu quả với biểu hiện thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ chính trị có tầm quan trọng đặc biệt trong tiến hành công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị. Vì vậy, đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị phải khắc ghi những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo để đội ngũ cán bộ chính trị không ngừng phát huy tốt vai trò gương mẫu của mình, luôn là người giữ vững “linh hồn, mạch sống” của Đảng trong Quân đội.

 

NVH41 - Thành tựu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

 

            Qua hơn 35 năm đổi mới và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011), công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Nhận thức, lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng thống nhất, đầy đủ và sâu sắc hơn. Hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện một bước cơ bản; vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật được chú trọng trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước và xã hội. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực. Bộ máy nhà nước từng bước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

          Tổ chức và hoạt động của Quốc hội có nhiều đổi mới, chất lượng được nâng cao. Hoạt động của Chính phủ chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô, tháo gỡ rào cản, phục vụ, hỗ trợ phát triển. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp có bước đột phá trên một số lĩnh vực. Tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên. Quyền con người, quyền công dân theo Hiến định tiếp tục được cụ thể hóa bằng pháp luật và thực hiện tốt hơn trên thực tế; dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện được tăng cường. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội từng bước được đổi mới. Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được hoàn thiện, vận hành theo cơ chế "Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ", góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

            Trên bình diện nghiên cứu cơ bản đã đạt được sự thống nhất trong việc xác định sự cần thiết, bản chất, vai trò, những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Về mặt quyết tâm chính trị, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Trên phương diện lập pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một nguyên tắc hiến định. Dưới góc độ chính trị - pháp lý có thể khái quát những thành tựu cơ bản của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN như sau:

          Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập một số nguyên tắc cơ bản, là nền tảng tư tưởng và quan điểm cho việc kiến tạo một Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.  Đó là các nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với các cơ chế bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân; Nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước từ phía nhân dân; Nguyên tắc Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền… Những nguyên tắc này không chỉ dừng ở những chủ trương chính trị mà đã được thể chế trong Hiến pháp năm 2013- Đạo luật gốc, đạo luật cơ bản nhất của Nhà nước. Điều này, đòi hỏi trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN phải không ngừng quán triệt, vận dụng và hiện thực hóa những nguyên tắc hiến định.

          Hai là, xác định rõ hơn vị trí, vai trò và chức năng của Nhà nước. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đề cao vai trò của pháp luật, tính độc lập của cơ quan xét xử, hoạt động của Nhà nước vì con người và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Nhận thức rõ những giá trị này, trong lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ vị trí, vai trò của Nhà nước là trụ cột, trung tâm của hệ thống chính trị, chuyển mạnh chức năng của Nhà nước theo hướng phục vụ nhân dân.

          Theo đó, một mặt, Đảng ta đã lãnh đạo phát huy tối đa vai trò trung tâm của Nhà nước trong quản lý kinh tế - xã hội, đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của các bộ phận quyền lực nhà nước - từ lập pháp, hành pháp, tư pháp, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Nhà nước từ chỗ là người trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh, phân phối, sang là người có vai trò định hướng, điều tiết, phối hợp, hướng dẫn một cách có kế hoạch nền kinh tế thị trường. Nhà nước đang trở thành người bảo trợ, xúc tác, tạo lập môi trường, huy động các nguồn lực và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế, ngăn chặn, hạn chế những mặt tiêu cực và khuyết tật của kinh tế thị trường, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Mặt khác, quá trình xã hội hóa đang được đẩy nhanh, từng bước loại bỏ dần sự can thiệp của Nhà nước vào những lĩnh vực quan hệ xã hội mà tính chất của chúng không đòi hỏi sự can thiệp ấy, tăng cường vai trò và khả năng độc lập của các thiết chế chính trị - xã hội theo hướng tạo ra những chủ thể bình đẳng và có tư cách kiểm soát hoạt động của Nhà nước.

          Ba là, công tác phòng ngừa và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng đạt được nhiều kết quả. Với chế độ chính trị nhất nguyên thì quan liêu, tham nhũng là một nguy cơ hiện thực, đe dọa nền dân chủ. Vì vậy, phòng ngừa và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước là một nhiệm vụ tất yếu được đặt ra. Trong thực tế, nhiệm vụ nói trên đã được triển khai thường xuyên và đạt những kết quả nhất định. Các văn kiện của Đảng từ Đại hội IX đến nay đều đánh giá: trong nhiều năm qua, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được coi trọng. Những biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã giảm khá nhiều và đang tiếp tục được cảnh tỉnh, răn đe; một số nơi tham nhũng, quan liêu, lãng phí, trong đó có không ít vụ việc tồn đọng kéo dài nhiều năm, đã được tiếp tục giải quyết…

          Bốn là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững được vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, từng bước tìm tòi và dẫn dắt quá trình nhận thức cũng như quá trình thể chế hóa các quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền XHCN trên cả phương diện chính trị và pháp lý.

          Đảng ngày càng xác định rõ hơn nội dung của phương thức lãnh đạo và các kênh, các con đường đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với Nhà nước pháp quyền XHCN.

          Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bao quát toàn bộ những vấn đề then chốt về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, thể hiện ở ba bộ phận trọng yếu: 1) lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách của Nhà nước và tổ chức thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng trở thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội của nhân dân; 2) lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; 3) lãnh đạo kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.

          Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được cải tiến theo hướng ngày càng có nhiều cách làm nhằm thực hiện và mở rộng dân chủ trong quan hệ Đảng - Nhà nước - Dân (ứng cử tự do, công khai các cuộc họp của Quốc hội, công bố các dự thảo luật để nhân dân góp ý, công bố nội dung các kỳ họp của Chính phủ...); các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng phát huy vai trò tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân và vai trò người phản biện đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

          Ngày càng phân định rõ hơn chức năng của các tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước, nhất là ở Trung ương, giảm bớt sự chồng chéo. Theo hướng đó, hoạt động của Đảng và mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước thể hiện ngày càng rõ hơn tính chất pháp quyền. Vai trò của các tổ chức nhà nước ngày càng được phát huy, được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động, tính chủ động, hiệu lực và hiệu quả ngày càng được nâng cao.

          Đảng bố trí cán bộ, đảng viên của mình giữ những cương vị chủ chốt trong bộ máy chính quyền các cấp, nhờ đó, giữ vững được sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với hệ thống chính trị.

          Năm là, về phương diện tổ chức quyền lực, Đảng lãnh đạo đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước theo hướng minh bạch, cụ thể các bộ phận thực hiện quyền lực và mối quan hệ giữa các cấp chính quyền.

          Cùng với sự khẳng định về sự thống nhất của quyền lực nhà nước và sự tồn tại của ba bộ phận quyền lực trong mối quan hệ phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước thì việc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng thể hiện rõ hơn. Tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền nói chung, của từng loại cơ quan nhà nước từng bước được đổi mới; chủ trương cải cách tổng thể bộ máy nhà nước đang được triển khai có kết quả:

          Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động của Quốc hội

          Hoạt động lập pháp đã có sự đổi mới mạnh mẽ trong xây dựng các đạo luật, nghị quyết, pháp lệnh, đã kịp thời thể chế hóa đường lối của Đảng và bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng lãnh đạo Quốc hội thực hiện tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng và chức năng giám sát tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước.

          Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động của Chính phủ

          Đảng lãnh đạo Chính phủ thông qua chủ trương, đường lối và các phương thức khác để định hướng hoạt động, điều hòa, phối hợp giữa các cơ quan của Chính phủ với các cơ quan Trung ương và giữa Chính phủ với chính quyền địa phương. Thông qua đó, Đảng kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động và cơ chế điều hành của Chính phủ, bảo đảm cho Chính phủ thực hiện được quyền hành pháp, đồng thời phải bảo đảm được tính định hướng chính trị thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng.

          Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động của các cơ quan tư pháp

          Đảng xác định đúng vị trí, chức năng, thẩm quyền của từng cơ quan tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp trong mối liên hệ với khâu trung tâm là xét xử theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền. Đó là các yêu cầu về tính độc lập, khách quan, phụng công, thủ pháp, chí công vô tư, tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, dân chủ, minh bạch. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương về cải cách tư pháp của Đảng, các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan trong thời gian qua đã và đang tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác tư pháp trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

          Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động, đa dạng hóa mô hình của chính quyền địa phương các cấp

          Hiến pháp năm 2013 đã tạo ra bước tiến lập pháp quan trọng, làm nền tảng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng đa dạng hóa các mô hình, gắn với thực tiễn và điều kiện tổ chức chính quyền đô thị, mô hình tổ chức chính quyền nông thôn, phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định.

NVH41 - Phản bác những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận giá trị tự do, dân chủ ở Việt Nam

 

        Trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” luôn được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Vì vậy, nhận rõ bản chất và kiên quyết đấu tranh bác bỏ các luận điệu vu cáo, xuyên tạc, làm thất bại mưu đồ nham hiểm, thâm độc của chúng là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết.

          Vấn đề dân chủ không đứng riêng một cách biệt lập, mà được các thế lực thù địch xuyên xoáy, xen lồng trong các vấn đề nhân quyền, dân tộc, tự do tín ngưỡng, tôn giáo,… tạo “hợp lực” chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Những luận điệu xuyên tạc dân chủ được chúng thực hiện trên tất cả các lĩnh vực; trong đó, xuyên tạc dân chủ trên lĩnh vực chính trị là trọng điểm, mang tính bao trùm, được triển khai trên hai “mảng miếng”, hai hướng chính: thứ nhất, bóp méo, xuyên tạc những biểu hiện dân chủ trong đời sống hiện thực; thứ hai, xuyên tạc bản chất, căn nguyên của tình trạng “mất dân chủ”, “không có dân chủ” ở nước ta. Các luận điệu xuyên tạc được thực hiện với nhiều hình thức, biện pháp rất xảo quyệt và tinh vi, tạo nên “ma trận”, dàn “hợp xướng” tiến công ta từ nhiều phía. Chúng kết hợp bên trong và bên ngoài với nhiều lực lượng; kết hợp dùng “lý luận cao siêu” với kiểu “hàng tôm hàng cá”; kết hợp chống quan điểm với trực tiếp tiến công vào con người, tổ chức. Chúng ra sức lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm của ta; khai thác các thông tin trong nước và quốc tế liên quan để lồng ghép các luận điệu xuyên tạc. Các luận điệu họ đưa ra đều cố tỏ vẻ khách quan, khoa học, tâm huyết với vận mệnh quốc gia, dân tộc; khoác cái áo “nhà dân chủ”, “yêu nước” để chống phá, xuyên tạc. Họ triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, các nền tảng mạng xã hội để móc nối, tập hợp, huấn luyện các đối tượng, lập các trang, nhóm, tài khoản có số người theo dõi lớn nhằm lan truyền những luận điệu xuyên tạc.

          Những luận điệu xuyên tạc về dân chủ là đặc biệt nguy hiểm, dễ gây nên sự hoài nghi, dao động trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và bản chất, tính ưu việt của chế độ dân chủ nước ta. Vì vậy, cần phải chủ động đấu tranh, phản bác trên một số khía cạnh sau.

          Không thể bóp méo, phủ nhận những thành tựu về dân chủ và bản chất chế độ dân chủ nước ta; không thể vu cáo Việt Nam “không có dân chủ”, “vi phạm dân chủ”, “mất dân chủ”. Thực tiễn cho thấy, kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đến nay, nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đứng lên làm chủ, tự mình tổ chức và xây dựng xã hội mới, chăm lo cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của chính mình; bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ nước ta ngày càng thể hiện sinh động, cụ thể trong cuộc sống của nhân dân. Người dân Việt Nam thấu hiểu những giá trị to lớn của độc lập, tự do, dân chủ, hiểu rõ quyền con người và cũng nhận rõ thế nào là dân chủ. “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”. Đó là thành tựu vĩ đại của cách mạng, của nền dân chủ nước ta. Chỉ cần có cái nhìn khách quan, thiện chí thì sẽ hiểu được những thành tựu dân chủ mà nhân dân ta với bao mồ hôi, công sức và cả máu xương mới có được, thấu hiểu được xã hội Việt Nam là thực sự dân chủ.

          Các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình” ở Việt Nam với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn, trong đó có chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”. Họ cho rằng, học thuyết “dân chủ”, “nhân quyền” cần áp dụng với Việt Nam là: xóa bỏ nền tảng tư tưởng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản. Đây là một trong những mũi tấn công chủ yếu của các thế lực thù địch thông qua các luận điệu xuyên tạc, hòng bóp méo sự thật, phủ nhận quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân chủ, nhân quyền.

          Mục đích của các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” nhằm thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tuyên truyền, xuyên tạc làm rối loạn tình hình chính trị ở Việt Nam, v.v. Những phương thức cụ thể mà họ vẫn thường sử dụng là: lợi dụng danh nghĩa “nhà dân chủ”, “đấu tranh vì nhân quyền” để xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng vấn đề chống tham nhũng, những hạn chế trong quản lý xã hội của chính quyền cơ sở, thiếu sót trong quản lý, điều hành đất nước hoặc những vấn đề bức xúc, khiếu kiện kéo dài chưa được giải quyết để lôi kéo, kích động những phần tử bất mãn với chế độ đẩy mạnh các hoạt động gây rối, biểu tình, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Mặt khác, họ chủ động tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một bộ phận nhân dân thông qua những chiêu trò, như: “hỗ trợ kinh phí để thực hiện việc khiếu kiện”; hỗ trợ nhân đạo kèm theo những điều kiện bắt buộc như tham gia các hội, nhóm, diễn đàn, hội thảo; lợi dụng sai phạm của một số cán bộ, đảng viên để đánh đồng, quy chụp thành bản chất, bôi nhọ, nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp, từng bước hạ thấp làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ.

          Cùng với đó, họ ra sức tuyên truyền, cổ xúy, cường điệu hóa các giá trị dân chủ tư sản phương Tây, tuyệt đối hóa tính toàn cầu, tính phổ cập của quyền con người với luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích quốc gia, dân tộc”; xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền cơ bản của con người, tự do tôn giáo, v.v. Đặc biệt, chúng đẩy mạnh các “chiến dịch” phá hoại tư tưởng, hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế khi chúng ta đăng cai tổ chức những sự kiện chính trị quan trọng hay tham gia các hội nghị, diễn đàn đa phương, song phương, nhất là của Liên hợp quốc.

          Các thế lực thù địch còn lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” làm điều kiện để gây sức ép, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam. Một số tổ chức, cá nhân còn tìm cách gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với các điều kiện về dân chủ, nhân quyền trong quan hệ với Việt Nam, đòi Việt Nam phải chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cải cách chính trị, dân chủ và pháp luật theo kiểu phương Tây. Họ gây sức ép, buộc Việt Nam phải có những tiến bộ cụ thể về dân chủ, nhân quyền, phải đưa ra các lộ trình cụ thể trong thực hiện các điều ước quốc tế về dân chủ, nhân quyền, v.v. Các đối tượng này còn gửi thư, bản kiến nghị tới một số quốc gia, tổ chức quốc tế để phản đối việc cơ quan chức năng Việt Nam bắt giữ, xét xử các phần tử lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” để vi phạm pháp luật, đòi trả tự do cho cái gọi là “tù nhân lương tâm”; đồng thời, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp người bất đồng chính kiến, người yêu nước, từ đó kêu gọi sự can thiệp của cộng đồng quốc tế. Ngoài ra, họ còn sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để thúc đẩy, hình thành hội, nhóm, tổ chức chính trị đối lập, thúc đẩy sự ra đời của các khuynh hướng dân chủ cực đoan, phát triển “xã hội dân sự”,… để chống phá từ bên trong với lý lẽ cho rằng, chế độ độc đảng ở Việt Nam là trở ngại lớn nhất trong tiến trình dân chủ hóa, muốn có dân chủ thực sự thì Việt Nam phải xóa bỏ chế độ độc đảng.

          Trên cơ sở nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch, các cấp, ngành, địa phương và cả hệ thống chính trị cần tập trung thực hiện đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp, nhằm đập tan âm mưu, thủ đoạn của chúng, giữ vững ổn định chính trị đất nước.

          1. Tiếp tục đặt công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, thường xuyên, toàn diện của Đảng và sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước. Đây là giải pháp cơ bản, quan trọng và có ý nghĩa quyết định trong triển khai công tác đấu tranh, phòng, chống làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá; đồng thời, khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta: dân chủ là bản chất, là mục tiêu, là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với phương châm chỉ đạo, công tác lý luận, tư tưởng phải đi trước, đón đầu, không tạo “khoảng trống thông tin” để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc chống phá, các cơ quan chức năng phải không ngừng nâng cao nhận thức, kỹ năng, xây dựng kế hoạch chiến lược, sách lược, tổ chức lực lượng một cách bài bản, khoa học trong đấu tranh, phản bác; thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả của công tác tư tưởng. Để thực hiện có hiệu quả giải pháp này cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân; trong đó, đi đầu là đội ngũ cán bộ, đảng viên, với lực lượng nòng cốt là Ban Chỉ đạo 35 các cấp, nhất là Ban Chỉ đạo 35 của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; Bộ Công an; Bộ Thông tin và Truyền thông; Ban Tuyên giáo Trung ương; Bộ Ngoại giao; Hội đồng Lý luận Trung ương cùng hệ thống các cơ quan truyền thông, báo chí, xuất bản và đội ngũ các nhà nghiên cứu khoa học, tuyên truyền viên,… tạo thành mạng lưới đấu tranh ngày càng đông đảo và hiệu quả.

          2. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá cách mạng Việt Nam. Đây là giải pháp tạo sự đồng thuận, thống nhất về nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, các cấp, ngành trong thực hiện nhiệm vụ đấu tranh làm thất bại mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao lập trường tư tưởng, có bản lĩnh chính trị vững vàng để nhận diện và kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm, sai trái thù địch, xuyên tạc, vu khống, phủ nhận thành tựu dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa nắm chắc âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nhận diện rõ các bài viết, những luận điệu sai trái đăng tải trên các trang mạng xã hội; không để thế lực thù địch kích động, lôi kéo vào các hoạt động biểu tình, khiếu kiện đông người hoặc vô tình bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá Đảng và Nhà nước. Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị từ Trung ương tới địa phương cần chỉ đạo các cơ quan truyền thông, báo chí, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, thường xuyên tuyên truyền các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu về dân chủ, nhân quyền mà Việt Nam đạt được. Không ngừng củng cố nhận thức chính trị cho đội ngũ cán bộ đảng viên và nhân dân, giữ vững “thế trận lòng dân”; làm tốt công tác vận động quần chúng, tăng cường và nâng cao hiệu quả từ phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc, thực hiện mỗi cán bộ, đảng viên là chiến sĩ trên mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng, thực hành phát huy dân chủ, nhân quyền.

          3. Đổi mới nội dung, đa dạng các hình thức, biện pháp đấu tranh, bảo vệ vững chắc nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhân quyền ở Việt Nam. Đổi mới, bổ sung nội dung đấu tranh trên cơ sở giữ vững quan điểm và nguyên tắc của Đảng và Nhà nước; mềm dẻo, linh hoạt, nhân văn trong phương pháp; công khai, minh bạch, dân chủ, góp phần tạo dư luận xã hội lành mạnh, đồng thuận. Trong đó, sử dụng các kênh truyền thông chính thống và các mạng xã hội để tiếp cận đông đảo quần chúng nhân dân, vừa tuyên truyền, vừa bóc trần những xuyên tạc vô căn cứ của các thế lực thù địch lợi dụng những vấn đề chính trị, xã hội để chống phá. Cùng với đấu tranh “trực diện” cần không ngừng nâng cao ý thức cảnh giác, tăng cường ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đa dạng hóa các hoạt động đấu tranh, thiết lập và sử dụng các biện pháp kỹ thuật, ngăn chặn một cách có hiệu quả. Kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng và quy định của tổ chức, cơ quan, đơn vị.

          4. Kết hợp phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xóa đói, giảm nghèo với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự xã hội để các thế lực thù địch không còn “đất” diễn. Cấp ủy, chính quyền các địa phương cần nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân, nhanh chóng giải quyết các vụ khiếu kiện gây bức xúc trong nhân dân. Tăng cường các biện pháp định hướng dư luận, đưa thông tin đúng, chính thống đến nhân dân, không để xảy ra những tình huống bị động, bất ngờ gây mất ổn định chính trị ở cơ sở; chú trọng khoanh vùng, giải quyết dứt điểm các “điểm nóng”, không để lan rộng, kéo dài gây bức xúc dư luận. Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, đồng bào dân tộc thiểu số; tạo điều kiện để nhân dân được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng theo quy định của pháp luật.

          5. Thường xuyên nắm chắc tình hình, dự báo sớm âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá của các thế lực thù địch; chủ động có biện pháp đấu tranh phù  hợp. Dân chủ, nhân quyền là vấn đề nhạy cảm, phức tạp mà các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá, hòng thực hiện mưu đồ chính trị đen tối. Vì vậy, chúng ta cần chủ động, nhạy bén nắm chắc các đối tượng phản động, thù địch, cũng như các thủ đoạn chống phá “từ trong trứng nước” để có các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa sớm, không để ăn sâu bám rễ trong nhân dân. Thường xuyên triển khai các biện pháp nắm và phòng ngừa bảo đảm linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với pháp luật Việt Nam cũng như luật pháp và quy định, thông lệ quốc tế, không để xảy ra sai sót dẫn đến các thế lực thù địch có thể lợi dụng chống phá.

NVH41 - Bác bỏ luận điệu phủ nhận chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam

 

Từ sự kiện Tổng thống Mỹ sang thăm Việt Nam, những ngày gần đây một số trang mạng xã hội như “Nhân quyền cho Việt Nam”, “Việt Tân”, “Thanh Hiêu Bui”, “Lê Trung Khoa”, đài “Á Châu Tự Do”…, đang ra sức phát tán nhiều thông tin xấu, độc để chống phá Đảng, Nhà nước; xuyên tạc mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Hoa Kỳ…chúng cho rằng “Đảng, Nhà nước Việt Nam bắt cá hai tay”, “miệng thì nói ra rả chính sách “bốn không” nhưng trên thực tế thì không làm như thế”, “lấy uy, oai của Mỹ để dọa khỉ, rung cây”, “dạy cho Trung Quốc một bài học”.

Một số ý kiến khác thì phản ứng ngược lại, “hoan hô sự đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam”, cho rằng “Hà Nội mời Tổng thống Mỹ Joe Biden đến Việt Nam là hoàn toàn đúng” vì “đi theo con đường TBCN là hợp thời thế”, “Việt Nam đi với Mỹ, gia nhập NATO thì Trung Quốc không dám quậy phá, đe dọa chiếm biển Đông”. Đây là một sự cáo buộc, vu khống trắng trợn, đã xuyên tạc sự thật, gây nghi ngờ và phá hoại mối quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước, hai Quân đội và các nguyên tắc mà lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết. 

Mục đích chống phá của các thế lực thù địch nhằm xuyên tạc, chống phá đường lối, chính sách đối ngoại quốc phòng độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước ta, chống phá cách mạng Việt Nam; gây hoang mang, dao động, làm suy giảm niềm tin vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách đối ngoại quốc phòng của Nhà nước, gây khó khăn cho Việt Nam trong các quan hệ quốc tế. Vì vậy, khẳng định tính độc lập, tự chủ của đối ngoại quốc phòng Việt Nam là nhiệm vụ cấp bách nhằm góp phần phản bác những quan điểm sai trái, xuyên tạc nói trên.

Rõ ràng là, trong bối cảnh thế giới hiện thời, Đảng ta, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tìm thấy đối sách phù hợp để ứng xử khôn khéo, vừa “được người, được việc, được quan hệ”, vừa “thêm bạn, bớt thù”, né tránh tổn thương, mâu thuẫn, và nguy cơ có thể dẫn đến xung đột, chiến tranh, làm gián đoạn quá trình đổi mới đất nước. Cùng với đó, chúng ta thực hiện phương châm “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy” một cách hiệu quả. Chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden theo lời mời của Tổng Bí thư Đảng ta Nguyễn Phú Trọng đã được chuẩn bị chu đáo, cân nhắc và tính toán kỹ lưỡng vì mục đích hòa bình, hữu nghị và hợp tác ở tầm đối tác chiến lược toàn diện có lợi cho hai dân tộc Việt Nam và Hoa Kỳ.

Chủ trương nhất quán của Việt Nam là đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng độc lập, tự chủ theo hướng phát triển sâu, rộng cả về phạm vi và mức độ hợp tác; “chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc” nhằm góp phần phát huy sức mạnh nội tại, củng cố sức mạnh quân sự, quốc phòng, tranh thủ tối đa ngoại lực để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong quan hệ đối ngoại quốc phòng, Việt Nam nhất quán chính sách quốc phòng “bốn không”: “Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”.

Tuy nhiên, tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế nhằm phát huy sức mạnh của mọi nguồn lực để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Thực hiện nhất quán chính sách “bốn không” quy định tính chất độc lập, tự chủ của đối ngoại quốc phòng Việt Nam, nhằm chủ trương thực hiện “kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.

Trong đối ngoại quốc phòng, Việt Nam luôn chú trọng thúc đẩy mở rộng quan hệ hợp tác và không coi nhẹ sức mạnh bạo lực, không mơ hồ, ảo tưởng về một nền hòa bình có được mà không dựa trên sức mạnh tự bảo vệ; không dựa trên liên minh quân sự hoặc “chiếc ô” bảo vệ của nước khác. Khẳng định chân lý về tính tất yếu của bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, Đảng ta, Nhà nước ta không một phút lơ là, mất cảnh giác trong củng cố sức mạnh toàn diện quân đội. Việc mở rộng đối ngoại quốc phòng, trong đó có việc mua sắm vũ khí, trang bị hiện đại, với mục đích tự vệ chính đáng cho thấy bản chất tự vệ, tính chính nghĩa và phù hợp của chủ trương xây dựng quân đội của Đảng ta. Đồng thời với từng bước hiện đại hóa quân đội phù hợp với chiến tranh hiện đại thì nâng cao chất lượng nhân tố chính trị - tinh thần luôn được đặt lên hàng đầu trong xây dựng quân đội ta.

Hiện nay, thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo; “cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế” (4). Trong khi đó “Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng” (5); các vấn đề an ninh truyền thống, đặc biệt là tranh chấp chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Từ đó, nêu bật tính độc lập, tự chủ của đối ngoại quốc phòng Việt Nam là rất cần thiết để phát huy sức mạnh dân tộc, tận dụng và khai thác triệt để sức mạnh của thời đại trong đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh ấy càng cần đến sự nhất quán và tính độc lập, tự chủ trong đối ngoại quốc phòng để không rơi vào chiêu bài dụ dỗ, mua chuộc, lợi dụng lôi kéo của “các bên”, để Việt Nam có khả năng tự quyết định vận mệnh dân tộc mình mà không trông chờ vào bất cứ thế lực bên ngoài nào.

Thực tiễn tình hình thế giới những năm qua và gần đây cho thấy rõ, cái phải trả cho việc liên minh với nước này để chống nước kia, của việc “chọn bên” là vô cùng đắt, thậm chí một nước nhỏ có thể trở thành con bài “tốt thí” trong tay các nước lớn. Cho nên, đường lối đối ngoại quốc phòng độc lập, tự chủ là đặc biệt quan trọng trong bối cảnh khu vực hiện nay. Trong một thế giới đầy biến động, cạnh tranh chiến lược và nhiều sự lựa chọn, Việt Nam không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, bình đẳng, tất cả cùng có lợi, cùng thắng, đó là quan điểm nhất quán, xuyên suốt và công khai của Đảng, Nhà nước ta trong thực hiện chính sách đối ngoại quốc phòng. Với việc kiên định nguyên tắc đó, chúng ta sẽ có đủ bản lĩnh, trí tuệ để xử lý đúng đắn các quan hệ đối ngoại mà không nhất thiết phải liên kết với nước này để chống nước kia. Chúng ta có thể chọn bạn, nhưng dứt khoát không chọn bên, đó là quan điểm nhất quán và cũng phù hợp với xu thế tiến bộ của thế giới ngày nay.

NVH41 - Đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta hiện nay

 

Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay được Đảng ta xác định là nhiệm vụ thường xuyên, vừa cấp bách, vừa lâu dài, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân, “kiên quyết, kiên trì” bền bỉ đấu tranh; với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai"[1] tất cả vì sự nghiệp chung của Đảng, vì sự nghiêm minh trong kỷ luật của Đảng, thượng tôn pháp luật của Nhà nước, vì sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng, Nhà nước; ý chí và nguyện của nhân

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng kết quả phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta để tung ra các luận điệu xuyên tạc, hướng lái dư luận xã hội. Chúng rêu rao rằng, “đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên là “thanh trừng phe phái”, “đấu đá nội bộ, phe cánh”, “tranh giành quyền lực; xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên sai phạm chỉ là “trò đánh trống, khua chiêng nhằm che mắt thế gian”, là chính “ta đánh ta”; gần đây chúng còn đưa ra những quan điểm xuyên tạc, kích động dư luận rằng không ai có thể tin rằng ở Việt Nam: "Chống tham nhũng không có vùng cấm, không có ngoại lệ"; chúng cho rằng đây là “Một cuộc “thanh trừng” trong Đảng ở Việt Nam”, “Không cần phải thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng”; không cần gán ghép “tham nhũng” với “tiêu cực”; không cần đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng; chỉ cần “thay đổi thể chế chính trị” là sẽ không còn tham nhũng....

Để thực hiện những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm đó, chúng tận dụng triệt để internet, mạng xã hội để tuyên truyền, phát tán những Clip, bài viết tập trung vào những vụ việc vi phạm kỷ luật của một số cán bộ, đảng viên, bình luận về nguyên nhân dẫn đến thoái hóa, biến chất, nguyên nhân dẫn đến sai phạm, nguyên nhân "thanh trừng" trong nội bộ; từ đó hướng lái tư tưởng, gieo rắc các quan điểm sai trái, xuyên tạc, bóp méo, thổi phồng các vụ việc trên; gây hoài nghi trong dư luận nhân dân; nhằm phủ nhận những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta và kết quả của công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Về Cơ sở lý luận để đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch

Trước hết, cần nhận thức rõ bản chất của tham nhũng, tiêu cực là một hiện tượng xã hội đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài người từ khi xã hội phân chia giai cấp, nó tồn tại ở mọi chế độ chính trị với tính chất, mức độ khác nhau, gắn liền với nhà nước và quyền lực; nó là sản phẩm của tất cả các thể chế chính trị từ khi có nhà nước, không phải của riêng chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ở thời kỳ của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, các ông chưa đưa ra những quan điểm riêng về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, bởi lúc bấy giờ trên thế giới chưa có một tổ chức đảng cộng sản; chưa có quốc gia nào giành được chính quyền cách mạng. Những ý kiến của các ông chủ yếu tập trung vào xây dựng, hoàn chỉnh lý luận về Đảng Cộng sản và xây dựng Đảng vững mạnh, lãnh đạo giành chính quyền; đồng thời, C.Mác, Ph.Ăng-ghen luôn coi trọng đấu tranh quyết liệt với những biểu hiện suy thoái của cán bộ, đảng viên cộng sản.

Kế thừa và phát triển lý luận của C.Mác và Ph.Ăng-ghen trong một hoàn cảnh mới, ở thời kỳ của V.I.Lê-nin, ông đã đưa ra nhiều quan điểm về đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; cụ thể trong các bài viết và phát biểu của mình, V.I. Lê-nin cho rằng, tham nhũng là những hành vi lợi dụng chức quyền, vị trí công tác để tư lợi cá nhân, làm suy giảm quyền lực tổ chức. Bằng cách tiếp cận này, V.I.Lê-nin đã chỉ ra căn nguyên của tham nhũng là quyền lực và quyền lực bị tha hóa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, cần phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng và Chính phủ; cần xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; phải làm cho mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân khinh ghét, xa lánh tham ô, lãng phí.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng “tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực và là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ; thời đại nào, chế độ nào, quốc gia nào cũng có, không thể xóa bỏ tận gốc tham nhũng trong một thời gian ngắn”.

Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 chỉ rõ: “Tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực của nhà nước để trục lợi riêng”. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 của Việt Nam cũng đã xác định: “Tham nhũng, tiêu cực là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.

Về Cở sở thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước ta

Trong các kỳ đại hội và nhất là Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa của Đảng và chế độ ta”.

Thời gian vừa qua, một loạt các sai phạm được đưa ra xét xử nghiêm minh. Điều này khẳng định công tác phòng, chống tham nhũng đã đạt nhiều kết quả quan trọng, tạo chuyển biến tích cực, “có bước đột phá, được tiến hành quyết liệt, có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống” góp phần thức tỉnh, cảnh báo, ngăn chặn từng bước và đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, suy thoái.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới

Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là một cuộc đấu tranh hết sức gay go, lâu dài, phức tạp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị; các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch sẽ ngày càng gia tăng, tinh vi và xảo quyệt hơn. Vì vậy để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới, cần chú trọng một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, tích cực tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và người dân để họ nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc của các thế lực thù địch, và các phần tử cơ hội, vạch trần bản chất của chúng, định hướng tiếp nhận thông tin trên mạng có chọn lọc, khách quan.

Hai là, Đẩy mạnh quán triệt và thực hiện các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng các cấp về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; để mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân có nhận thức đúng đắn với nhiệm vụ này. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh tinh thần: “Nhất hô bá ứng”, “Tiền hô hậu ủng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt” để nói lên tinh thần đoàn kết, thống nhất về nhận thức, hành động, vì sự nghiệp cách mạng chung và công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nói riêng.

Ba là, mỗi tổ chức, cá nhân phải nhận thức rõ phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc chiến chống “giặc nội xâm” của cả dân tộc do Đảng Cộng sản việt Nam lãnh đạo với tinh thần, kiên quyết phòng, chống, thẳng thắn, quyết liệt. Phòng, chống tham nhũng bằng cả cơ chế, chính sách và hệ thống kiểm soát quyền lực... Có như vậy, tham nhũng, lợi ích nhóm mới bị đẩy lùi.

Bốn là, Tiếp tục triển khai mạnh mẽ Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, đây là sự định hướng chiến lược quan trọng trong việc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Chúng ta có thể khẳng định: Tham nhũng, tiêu cực là một hiện tượng của xã hội, tính chất nguy hiểm của nạn tham nhũng làm ảnh hưởng xấu đến đội ngũ cán bộ, công chức; nếu không được ngăn chặn, loại bỏ sẽ gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế và gây cản trở đến sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Hệ lụy kéo theo là làm suy thoái đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đặc biệt là hàng ngũ lãnh đạo, một bộ phận có chức, có quyền. Đấu tranh loại bỏ tham nhũng, tiêu cực là một quá trình lâu dài trong dòng chảy liên tục mà bất kỳ thể chế chính trị hay quốc gia nào cũng phải quan tâm để xóa bỏ tận gốc khuyết tật đó.

NVI41 - UY TÍN CỦA MỘT QUỐC GIA ĐÂU CÓ THỂ DO MỘT TỔ CHỨC MỘT CÁ NHÂN ĐÁNH GIÁ

 

        Theo KCTD – Trong thời gian qua, có một số tổ chức, cá nhân (vốn là thành phần khủng bố và phản động) liên tục có những bài viết xuyên tạc, nhằm hạ thấp uy tín và danh dự của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, những quan điểm của họ chỉ là phiến diện, phi thực tế. Bởi lẽ, bản thân những tác giả của các bài viết đó không thể đại diện cho một quốc gia hoặc nhiều quốc gia. Đó chỉ là những cá nhân, tổ chức đại diện cho lợi ích của thiểu số (rất thiểu số). Trong khi đó, những điều tạo nên uy tín của Việt Nam không phải quốc gia nào cũng có thể làm được.

Uy tín là danh từ chỉ sự tín nhiệm và mến phục được mọi người công nhận. Nó biểu thị cho sự đáng tin cậy và đáng kính trọng của một cá nhân hoặc tổ chức trong cộng đồng. Uy tín không chỉ dựa vào danh tiếng hay hình ảnh bên ngoài, mà còn phản ánh sự đáng tin cậy và chất lượng của hành động, lời nói và những cam kết mà họ đưa ra.

Một người có uy tín là người mà mọi người tin tưởng và kính trọng. Họ thể hiện sự trung thực, tôn trọng người khác và đáp ứng đúng những cam kết đã đưa ra. Uy tín là một yếu tố quan trọng trong xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, niềm tin và sự ủng hộ từ cộng đồng xung quanh. Một khi đã có uy tín, người đó dễ dàng thu hút đồng lòng, sự hỗ trợ từ những người xung quanh, từ đó thành công trong công việc và cuộc sống. Như vậy, có thể suy rộng ra về uy tín của một đất nước chính là chỉ sự tín nhiệm và mến phục được các quốc gia khác công nhận.

          Trong thời gian qua, có một số tổ chức, cá nhân (vốn là thành phần khủng bố và phản động) liên tục có những bài viết xuyên tạc, nhằm hạ thấp uy tín và danh dự của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, những quan điểm của họ chỉ là phiến diện, phi thực tế. Bởi lẽ, bản thân những tác giả của các bài viết đó không thể đại diện cho một quốc gia hoặc nhiều quốc gia. Đó chỉ là những cá nhân, tổ chức đại diện cho lợi ích của thiểu số (rất thiểu số). Trong khi đó, những điều tạo nên uy tín của Việt Nam không phải quốc gia nào cũng có thể làm được.

Để có được vị thế, uy tín như ngày nay có sự tổng hợp của rất nhiều yếu tố. Trong đó sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam và sự nỗ lực cố gắng không mệt mỏi của toàn thể dân tộc Việt Nam (cả trong nước và ở nước ngoài) trên mọi phương diện là điều tiên quyết. Có rất nhiều bằng chứng để minh chứng cho điều đó. Theo báo Quân đội nhân dân điện tử ngày 30/6/2003 có bài viết “Khẳng định vị thế, uy tín quốc tế ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế” đã có đoạn viết: “bạn bè thế giới bày tỏ sự cảm phục trước một dân tộc yêu chuộng hòa bình, thân thiện, mến khách; cũng là một dân tộc ngày càng khẳng định vị thế và tầm ảnh hưởng sâu rộng trên chính trường quốc tế. Dấu ấn được ghi nhận đậm nét không chỉ thể hiện ở thái độ ứng xử, văn hóa Việt Nam, truyền thống Việt Nam mà ở cả sự thay đổi, bứt phá của nền kinh tế-xã hội đất nước; qua sự đóng góp của Việt Nam cho cộng đồng quốc tế; qua chính những đánh giá, ghi nhận của nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới.

Chưa bao giờ đất nước ta khẳng định được vị thế và có nhiều đóng góp quan trọng đối với các tổ chức quốc tế như thời gian qua. Trên bình diện đa phương, Việt Nam có nhiều đóng góp hiệu quả và đảm nhiệm thành công vai trò chủ chốt tại các tổ chức, diễn đàn, đặc biệt là Liên hợp quốc, ASEAN. Việt Nam chủ động đưa ra nhiều ý tưởng sáng tạo ở hầu hết tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, nhất là ASEAN, ASEM, APEC, Liên hợp quốc, nhóm các nước G7, G20... Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu. Hoạt động đối ngoại quốc phòng, an ninh ngày càng đi vào chiều sâu, đạt nhiều thành quả nổi bật, góp phần củng cố, nâng cao tiềm lực đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres trong cuộc điện đàm với lãnh đạo cấp cao Việt Nam từng khẳng định: “Việt Nam là nhân tố quan trọng đóng góp cho hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới”. Đại sứ Barbara Woodward, Trưởng phái đoàn thường trực Anh tại Liên hợp quốc đánh giá: “Việt Nam trực tiếp tham gia giải quyết nhiều vấn đề quan trọng, chẳng hạn vai trò của phụ nữ đối với hòa bình và an ninh, bảo vệ dân thường trong xung đột hay xử lý bom, mìn... Những đóng góp của Việt Nam có giá trị cao, giúp giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với hòa bình và an ninh quốc tế”. Hơn thế, một điều dễ nhận thấy là các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Việt Nam thường được mời tham dự và có những bài phát biểu quan trọng tại các hội nghị, diễn đàn quốc tế quan trọng.

Điều đặc biệt là trong những năm gần đây, uy tín, vị thế của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định và nâng lên tầm cao mới. Các đảng, các quốc gia trên thế giới đều tôn trọng thể chế chính trị Việt Nam. Chỉ tính trong năm 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thăm chính thức Trung Quốc, tiến hành 37 cuộc hội đàm, điện đàm, tiếp xúc quốc tế; đồng chí Thường trực Ban Bí thư thực hiện 24 hoạt động đối ngoại; các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư có gần 20 chuyến thăm theo tính chất đối ngoại đảng... Cùng với đó, công tác đối ngoại đảng ở các địa phương cũng ngày càng đi vào thực chất, có bước phát triển mới; nổi bật là sự tham gia tích cực, chủ động của các đồng chí lãnh đạo tỉnh ủy, thành ủy; chủ động và tham gia tích cực những hoạt động đối ngoại của địa phương dưới nhiều hình thức. Việc triển khai các thỏa thuận, chương trình hợp tác đã ký kết với các đảng bộ trực thuộc các đảng đối tác được triển khai hiệu quả, nhất là hợp tác quốc tế của cấp ủy các địa phương biên giới...

Một minh chứng sinh động cho uy tín, vị trí của Đảng Cộng sản Việt Nam trên trường quốc tế là khi Đảng ta tổ chức thành công Đại hội lần thứ XIII đã nhận hơn 360 thư, điện mừng của nhiều quốc gia, nguyên thủ quốc gia, chính đảng, tổ chức quốc tế... Hằng năm, nhân Ngày thành lập Đảng (3-2), các nước, các đảng, tổ chức quốc tế... đều gửi thư, điện chúc mừng. Trong đó, bạn bè quốc tế luôn đánh giá cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới. Các đảng, các nước, không phân biệt hệ thống chính trị, khuynh hướng chính trị, nhận thức rất rõ vai trò và tầm quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam; bày tỏ mong muốn được hợp tác và mở rộng quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam”

          Đặc biệt, trong thời gian cuối 2023, đầu năm 2024, Việt Nam liên tục được tiếp đón các nguyên thủ quốc gia của nhiều nước lớn trên thế giới đến thăm và phát triển, thắt chặt thêm mối quan hệ hợp tác. Đồng thời, nguyên thủ quốc gia của Việt Nam đến thăm các quốc gia khác đều được nước bạn tiếp đón nồng hậu với những nghi lễ quan trọng nhất của họ tiếp đón khách quý! Nhiều văn kiện hợp tác quốc tế quan trọng được ký kết giữa các bên,

    Đây chính là một minh chứng cụ thể khẳng định vị thế, uy tín của Việt Nam trên chính trường quốc tế. Do đó, có thể thấy mọi luận điệu xuyên tạc nhằm hạ thấp uy tín của Việt Nam chỉ là luận điệu của những kẻ phản động. Mặc dù hành động của chúng không đạt được hiệu quả. Nhưng mỗi chúng ta là con dân đất Việt, là “con Rồng, cháu Tiên” cần phải hết sức cảnh giác trước các âm mưu thâm độc của những kẻ phản động. Đồng thời, cùng nhau nỗ lực phấn đấu xây dựng và bảo vệ vững chắc độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam ngày càng cường thịnh!

 

NVI41 - NHẬN DIỆN VẤN ĐỀ SUY THOÁI TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC LỐI SỐNG CỦA CÁN BỘ ĐẾN “TỰ DIỄN BIẾN”,” TỰ CHUYỂN HÓA” HIỆN NAY

 


            Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên đã và đang trở thành một căn bệnh “man y”, nội dung cấp bách, trở thành mệnh lệnh cuộc sống nếu không được ngăn chặn, đẩy lùi sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nhận diện, chỉ rõ và đề ra các giải pháp khắc phục hữu hiệu, coi đây là vấn đề vừa mang tính cấp bách, lâu dài vừa mang tính sống còn đối với Đảng, chế độ ta. Một trong những giải pháp hiểu hiệu nhất, đó là bằng ý chí, quyết tâm chính trị và tinh thần trách nhiệm cao của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.

Suy thoái là sự yếu kém, hư hỏng, làm mất dần đi cái tốt, cái tiến bộ, làm tăng dần cái xấu, cái lạc hậu, làm chậm quá trình phát triển dẫn đến sự thoái hóa và biến chất của sự vật, hiện tượng, quá trình hay chính bản thân con người và tổ chức xã hội của con người. Sự suy thoái này theo thời gian, dần trở thành một căn bệnh trong xã hội - “Bệnh suy thoái”. “Bệnh suy thoái” là sự giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động về chính trị, sa sút phẩm chất đạo đức, xuống cấp về lối sống. Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống khác với những băn khoăn, lo lắng, bức xúc, có lúc thiếu lòng tin; khác với vi phạm một số khuyết điểm, chấp hành không nghiêm một số quy định của Hiến pháp, pháp luật. Sự suy thoái này tất yếu sẽ làm hư hỏng, làm biến chất cán bộ, đảng viên và làm hỏng mọi việc của cá nhân và tổ chức.

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Trong thế giới cái gì cũng biến hóa, tư tưởng con người cũng biến hoá. Có cái thì biến hóa tiến bộ lên, tức là phát triển; có cái thì biến hóa lạc hậu đi, tức là suy thoái”[1]. Đó “khuynh hướng chật hẹp và bao biện”, “lạm dụng hình phạt”, “hủ hóa”, “kéo bè kéo cánh”, “kiêu ngạo”... Những khuyết điểm đó tiếp tục được Người chỉ rõ trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra những khuyết điểm phát triển thành “căn bệnh rất nguy hiểm” mà cán bộ, đảng viên mắc phải,

Từ nhận diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn sâu sát quy trình diễn tiến của “bệnh” suy thoái. Tại Đại hội II (2-1951), Đảng ta đã chỉ ra một số biểu hiện suy thoái như: “bệnh chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi, bệnh công thần”. Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, Đảng ta đã đề cập tới vấn đề suy thoái tư tưởng chính trị: “Trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng”[2]. Các kỳ Đại hội IX, X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định tình trạng suy thoái là nghiêm trọng. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái thuộc 3 nhóm tư tưởng - chính trị, đạo đức - lối sống, và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ[3]Tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII), Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Bước vào giai đoạn phát triển mới, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” còn diễn biến phức tạp”[4].

Hiện nay, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống biểu hiện tính chất, mức độ khác nhau, diễn ra ở các đối tượng khác nhau, từ đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý - đảng viên thường, đến đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp, kể cả cán bộ cao cấp. Vấn đề đặt ra cấp bách là cần nhận diện đúng sự suy thoái đang diễn ra ở những đối tượng nào? Có thể chia thành hai nhóm đối tượng: sự suy thoái của bộ phận cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý, kể cả cán bộ cao cấp và sự suy thoái của bộ phận đảng viên không giữ chức vụ trong Đảng và chính quyền.

Sự suy thoái của nhóm cán bộ, đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý có chức, có quyền, trong đó có những cán bộ, đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý cấp cao, kể cả cấp Trung ương. Nhóm này có nguy cơ suy thoái cao và có nguy hại lớn, vì sự liên quan lớn hơn đến quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế, quyền lực xã hội của họ. Suy thoái về tư tưởng chính trị biểu hiện ở bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền này là tự cho mình đứng ngoài sự quản lý, giám sát của tổ chức, coi thường kỷ luật, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, cũng như quy định của cơ quan, đơn vị; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, có tư tưởng bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; coi thường nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Trong quan hệ trực tiếp với nhân dân có biểu hiện quan cách, cửa quyền, hách dịch, nhũng nhiễu, xa dân, thờ ơ, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân; có các hành vi vô đạo đức trong quan hệ gia đình và quan hệ giữa cá nhân với xã hội; đạo đức nghề nghiệp sa sút, đặc biệt trong những lĩnh vực được xã hội tôn vinh; mê tín dị đoan, vi phạm thuần phong mỹ tục của dân tộc, của cha ông; một số có biểu hiện vọng ngoại hoặc sa vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Từ đó, dẫn tới độc đoán, chuyên quyền, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, coi thường tập thể, trở thành “quan cách mạng”.

Sự suy thoái của bộ phận đảng viên không giữ chức vụ trong Đảng và chính quyền. Đảng viên không giữ cương vị chức trách trong Đảng và chính quyền là những đảng viên chưa hoặc không được giao các chức vụ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, chỉ chịu trách nhiệm cá nhân khi thực hiện các nhiệm vụ đảng viên. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị của nhóm đối tượng này là phai nhạt lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, thậm chí muốn từ bỏ mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phai nhạt lý tưởng, hoài nghi về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về đường lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhận thức chưa sâu sắc về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; mơ hồ, mất cảnh giác, làm lộ, lọt thông tin, tài liệu bí mật quân sự, bí mật quốc gia; ngại học tập lý luận chính trị và tham gia các phong trào cách mạng; không thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, lối sống trong sáng, chính trực, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, vụ lợi, cơ hội, buông thả, thực dụng, hưởng thụ, tính toán thiệt hơn; sa sút ý chí chiến đấu, trung bình chủ nghĩa, ý chí đấu tranh tự phê bình và phê bình, dĩ hòa vi quý, nói dựa, lấy lòng nhau, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; nói không đi đôi với làm, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, “lợi ích nhóm”; không làm tròn nhiệm vụ người đảng viên. Nhiều người không thấm nhuần tư tưởng và tiêu biểu về phẩm chất: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.

Đối với quân đội, biểu hiện những hạn chế, yếu kém trong công tác cán bộ, chính sách, quản lý tài chính, vật tư, cơ sở vật chất kỹ thuật, trang bị; bệnh hình thức, thành tích; ý thức tổ chức kỷ luật kém, vi phạm nguyên tắc, chế độ quy định, kỷ luật, pháp luật, những điều đảng viên không được làm; quan liêu, tham nhũng, lãng phí; vi phạm đạo đức, lối sống, mất đoàn kết nội bộ và đoàn kết quân - dân; tinh thần cảnh giác, chất lượng huấn luyện, giáo dục và khả năng sẵn sàng chiến đấu chưa cao; lúng túng trong nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn tiêu cực, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch; ngại học tập, nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; trung bình chủ nghĩa, né tránh phê bình, thiếu trách nhiệm với công việc, hiệu quả công tác thấp, thậm chí có cán bộ, chiến sĩ không hoàn thành nhiệm vụ.

Hiện nay, toàn Đảng, với tinh thần quyết tâm, nhận rõ trách nhiệm lịch sử và ý nghĩa thiêng liêng, trọng đại của vấn đề xây dựng Đảng, tạo sự chuyển biến rõ rệt và khắc phục bệnh suy thoái, cần phải nhận diện đúng, trúng sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là những nội dung cấp bách, trở thành mệnh lệnh của cuộc sống. Với ý chí quyết tâm và tinh thần trách nhiệm cao, thời gian qua, Đảng ta không chỉ ban hành nhiều nghị quyết, các cuộc vận động mà còn bằng việc làm cụ thể thiết thực đã từng bước đẩy lùi, ngăn chặn con “vi rút” suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ, đảng viên ở vị trí lãnh đạo cấp cao nói riêng. Điều đó đã củng cố lòng tin của nhân dân đối với chế độ, “ý Đảng hợp với lòng dân” sẽ tạo ra sức mạnh tinh thần to lớn - nền tảng vững chắc thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội XIII đề ra.

 

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...