Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên đã và đang trở thành một căn bệnh “man y”, nội dung cấp bách, trở thành mệnh lệnh cuộc sống nếu không được ngăn chặn, đẩy lùi sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nhận diện, chỉ rõ và đề ra các giải pháp khắc phục hữu hiệu, coi đây là vấn đề vừa mang tính cấp bách, lâu dài vừa mang tính sống còn đối với Đảng, chế độ ta. Một trong những giải pháp hiểu hiệu nhất, đó là bằng ý chí, quyết tâm chính trị và tinh thần trách nhiệm cao của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Suy thoái là sự yếu kém, hư hỏng, làm
mất dần đi cái tốt, cái tiến bộ, làm tăng dần cái xấu, cái lạc hậu, làm chậm
quá trình phát triển dẫn đến sự thoái hóa và biến chất của sự vật, hiện tượng,
quá trình hay chính bản thân con người và tổ chức xã hội của con người. Sự suy
thoái này theo thời gian, dần trở thành một căn bệnh trong xã hội - “Bệnh suy
thoái”. “Bệnh suy thoái” là sự giảm sút ý
chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động về chính trị, sa sút phẩm chất đạo
đức, xuống cấp về lối sống. Suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống khác với những băn khoăn, lo lắng, bức xúc, có lúc
thiếu lòng tin; khác với vi phạm một số khuyết điểm, chấp hành không nghiêm một
số quy định của Hiến pháp, pháp luật. Sự suy thoái này tất yếu sẽ làm hư hỏng,
làm biến chất cán bộ, đảng viên và làm hỏng mọi việc của cá nhân và tổ chức.
Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Trong thế giới cái gì cũng biến hóa, tư
tưởng con người cũng biến hoá. Có cái thì biến hóa tiến bộ lên, tức là phát
triển; có cái thì biến hóa lạc hậu đi, tức là suy thoái”[1]. Đó “khuynh hướng
chật hẹp và bao biện”, “lạm dụng hình phạt”, “hủ hóa”, “kéo bè kéo cánh”, “kiêu
ngạo”... Những khuyết điểm đó tiếp tục được Người chỉ rõ trong tác phẩm “Sửa
đổi lối làm việc”. Với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra những khuyết
điểm phát triển thành “căn bệnh rất nguy hiểm” mà cán bộ, đảng viên mắc phải,
Từ nhận diện của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn sâu sát quy trình diễn
tiến của “bệnh” suy thoái. Tại Đại hội II (2-1951), Đảng ta đã chỉ ra một số
biểu hiện suy thoái như: “bệnh chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi, bệnh
công thần”. Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, Đảng ta đã đề cập tới vấn
đề suy thoái tư tưởng chính trị: “Trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: Sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một
bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng”[2].
Các kỳ Đại hội IX, X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định tình
trạng suy thoái là nghiêm trọng. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII)
chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái thuộc 3 nhóm tư tưởng - chính
trị, đạo đức - lối sống, và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hoá" trong nội bộ[3]. Tại Hội
nghị Trung ương 4 (khóa XIII), Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Bước vào giai đoạn
phát triển mới, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức,
bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” còn diễn biến phức tạp”[4].
Hiện nay, sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống biểu hiện tính chất, mức độ khác nhau, diễn
ra ở các đối tượng khác nhau, từ đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý
- đảng viên thường, đến đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp, kể cả
cán bộ cao cấp. Vấn đề đặt ra cấp bách là cần nhận diện đúng sự suy thoái đang
diễn ra ở những đối tượng nào? Có thể chia thành hai
nhóm đối tượng: sự suy thoái của bộ phận cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh
đạo, quản lý, kể cả cán bộ cao cấp và sự suy thoái của bộ phận đảng viên không
giữ chức vụ trong Đảng và chính quyền.
Sự suy thoái của nhóm cán bộ, đảng viên giữ vị trí
lãnh đạo, quản lý có chức, có quyền, trong đó có những cán bộ, đảng viên giữ vị
trí lãnh đạo, quản lý cấp cao, kể cả cấp Trung ương. Nhóm này có nguy cơ suy
thoái cao và có nguy hại lớn, vì sự liên quan lớn hơn đến quyền lực chính trị,
quyền lực kinh tế, quyền lực xã hội của họ. Suy thoái về tư tưởng chính trị
biểu hiện ở bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền này là tự cho mình đứng
ngoài sự quản lý, giám sát của tổ chức, coi thường kỷ luật, nguyên tắc lãnh đạo
của Đảng, cũng như quy định của cơ quan, đơn vị; không thực hiện đúng các
nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, có tư tưởng bè phái, cục bộ, mất đoàn kết;
coi thường nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Trong quan hệ trực
tiếp với nhân dân có biểu hiện quan cách, cửa quyền, hách dịch, nhũng nhiễu, xa
dân, thờ ơ, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân; có các hành vi vô đạo đức
trong quan hệ gia đình và quan hệ giữa cá nhân với xã hội; đạo đức nghề nghiệp
sa sút, đặc biệt trong những lĩnh vực được xã hội tôn vinh; mê tín dị đoan, vi
phạm thuần phong mỹ tục của dân tộc, của cha ông; một số có biểu hiện vọng
ngoại hoặc sa vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Từ đó, dẫn tới độc đoán, chuyên
quyền, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, coi thường tập thể, trở thành “quan cách
mạng”.
Sự suy thoái của bộ phận đảng viên không
giữ chức vụ trong Đảng và chính quyền. Đảng viên không giữ cương vị chức trách
trong Đảng và chính quyền là những đảng viên chưa hoặc không được giao các chức
vụ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, chỉ chịu trách nhiệm cá nhân khi thực hiện các
nhiệm vụ đảng viên. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị của nhóm đối tượng này
là phai nhạt lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, thậm chí muốn từ bỏ mục tiêu xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phai nhạt lý tưởng, hoài nghi về chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội, về đường lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhận thức chưa sâu sắc về nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc; mơ hồ, mất cảnh giác, làm lộ, lọt thông tin, tài liệu bí mật
quân sự, bí mật quốc gia; ngại học tập lý luận chính trị và tham gia các phong
trào cách mạng; không thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, lối sống trong
sáng, chính trực, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, vụ lợi, cơ hội, buông thả,
thực dụng, hưởng thụ, tính toán thiệt hơn; sa sút ý chí chiến đấu, trung bình
chủ nghĩa, ý chí đấu tranh tự phê bình và phê bình, dĩ hòa vi quý, nói dựa, lấy
lòng nhau, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; nói không đi đôi
với làm, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, “lợi ích nhóm”; không làm tròn nhiệm
vụ người đảng viên. Nhiều người không thấm nhuần tư tưởng và tiêu biểu về phẩm
chất: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
Đối với quân đội, biểu hiện những hạn chế,
yếu kém trong công tác cán bộ, chính sách, quản lý tài chính, vật tư, cơ sở vật
chất kỹ thuật, trang bị; bệnh hình thức, thành tích; ý thức tổ chức kỷ luật
kém, vi phạm nguyên tắc, chế độ quy định, kỷ luật, pháp luật, những điều đảng
viên không được làm; quan liêu, tham nhũng, lãng phí; vi phạm đạo đức, lối
sống, mất đoàn kết nội bộ và đoàn kết quân - dân; tinh thần cảnh giác, chất
lượng huấn luyện, giáo dục và khả năng sẵn sàng chiến đấu chưa cao; lúng túng
trong nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn tiêu cực, phản bác những luận điệu sai
trái, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, âm mưu “phi chính trị hóa”
quân đội của các thế lực thù địch; ngại học tập, nghiên cứu lý luận Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; trung bình chủ nghĩa, né tránh phê bình, thiếu
trách nhiệm với công việc, hiệu quả công tác thấp, thậm chí có cán bộ, chiến sĩ
không hoàn thành nhiệm vụ.
Hiện nay, toàn Đảng, với tinh thần quyết
tâm, nhận rõ trách nhiệm lịch sử và ý nghĩa thiêng liêng, trọng đại của vấn đề
xây dựng Đảng, tạo sự chuyển biến rõ rệt và khắc phục bệnh suy thoái, cần phải
nhận diện đúng, trúng sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên là những nội dung cấp bách, trở thành mệnh lệnh của cuộc
sống. Với ý chí quyết tâm và tinh thần trách nhiệm cao, thời gian qua, Đảng ta
không chỉ ban hành nhiều nghị quyết, các cuộc vận động mà còn bằng việc làm cụ
thể thiết thực đã từng bước đẩy lùi, ngăn chặn con “vi rút” suy thoái của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ, đảng viên ở vị trí lãnh
đạo cấp cao nói riêng. Điều đó đã củng cố lòng tin của nhân dân đối với chế độ,
“ý Đảng hợp với lòng dân” sẽ tạo ra sức mạnh tinh thần to lớn - nền tảng vững
chắc thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội XIII đề ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét