Tự do báo chí là một trong những quyền cơ bản
của con người trong thời đại ngày nay. Đó là quyền được thông tin, trao đổi,
giao tiếp, thể hiện ý chí và nguyện vọng của mỗi cá nhân và tổ chức qua các
phương tiện truyền thông đại chúng. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều quyền cơ
bản của con người, quyền tự do báo chí phải đặt trong khuôn khổ của pháp luật.
Chúng
ta biết, không chỉ Việt Nam mà rất nhiều quốc gia trên thế giới đều có quy định
trong Hiến pháp: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Vì thế, việc các cơ
quan chức năng của Việt Nam xét xử một số nhà báo, hoặc những người đã từng làm
báo vi phạm pháp luật là điều bình thường. Nhà báo cũng là công dân, đều bình
đẳng trước pháp luật như mọi công dân khác. Thế nhưng, gần đây, khi tòa án của
Việt Nam xét xử một số phần tử lợi dụng “mác phóng viên” để kích động xuyên
tạc, tán phát những thông tin sai lệch,… thì một số người đã “bày tỏ chính
kiến” trên mạng xã hội hoặc trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài rằng: “Việt
Nam đã đàn áp nhà báo”, “Ở Việt Nam không có tự do báo chí”, v.v. Cùng với đó,
một số tổ chức và báo chí của nước ngoài do không hiểu, hoặc cố tình không hiểu
tình hình thực tế của Việt Nam đã thêu dệt và đưa những thông tin không đúng sự
thật về báo chí Việt Nam. Điển hình là Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF)
đã công bố cái gọi là báo cáo về “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2024”,
đưa ra luận điệu bịa đặt và cáo buộc rằng: Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các quốc
gia có tình hình báo chí “đàn áp và kiểm duyệt” báo chí. Từ đó, họ kêu gọi mọi
người đấu tranh đòi “tự do báo chí đích thực”, “thả tự do cho các nhà báo” vi
phạm bị pháp luật xử lý, v.v.
Trên
thực tế, hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều có chế tài, điều khoản
luật xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng tự do báo chí để vi phạm pháp luật.
Nói cách khác, tự do báo chí, ở bất kỳ quốc gia nào cũng phải gắn với chế độ
chính trị, điều kiện xã hội, nền tảng đạo đức, pháp lý trong mỗi hoàn cảnh lịch
sử cụ thể. Mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện và bối cảnh cụ thể mà đưa ra
những giới hạn nhất định đối với việc thực hiện tự do ngôn luận của công dân
Ở
Việt Nam, Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, trong
đó có quyền tự do ngôn luận của công dân. Tự do ngôn luận được hiến định tại
Điều 10 trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm
1946): “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ
chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước
ngoài”. Điều 25, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện hành
(năm 2013) tiếp tục khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền
này do pháp luật quy định”. Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm
2016 và Luật An ninh mạng năm 2018 đều có những quy định cụ thể về tự do ngôn
luận, tự do báo chí. Các đạo luật này còn có những quy định cụ thể về hành vi
đăng tải, phát tán thông tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính
quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận
thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật,
vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá
nhân,… đều bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Như vậy, về mặt
pháp luật, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành khung pháp lý về quyền tự do
ngôn luận đầy đủ, đồng bộ, tương thích với luật pháp quốc tế về quyền con
người.
Thế
nhưng, một số tổ chức, cá nhân có thể không hiểu hoặc có biết nhưng do có dụng
ý xấu lại xuyên tạc, bịa đặt. Họ nhân danh cái gọi là “dân chủ”, “nhân quyền”
để cổ vũ cho thứ tự do báo chí không xây dựng trên nền tảng của sự trung thực
và tôn trọng sự thật; một thứ “tự do báo chí” vô nguyên tắc, nằm ngoài khuôn
khổ pháp luật. Họ đòi Việt Nam phải tổ chức, quản lý báo chí theo “mô hình báo
chí phương Tây”, đòi “tư nhân hóa báo chí” để biến báo chí ở Việt Nam thành
công cụ phục vụ mưu đồ của họ. Họ ra sức tung hô, cổ xúy, ca ngợi những kẻ mà
họ gán cho những mỹ từ, như: “nhà báo tự do”, “nhà đấu tranh dân chủ”, “nhà bất
đồng chính kiến” mà thực ra đó là những người vi phạm pháp luật, đã bị pháp
luật Việt Nam xử lý.
Theo
Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, “quyền tự do ngôn
luận” của mọi công dân là quyền được tự do có quan điểm và giữ vững quan điểm
của mình, cũng như được tự do tìm kiếm và tiếp nhận, chia sẻ thông tin nhưng
phải nằm trong giới hạn mà pháp luật quy định, phù hợp với các giá trị đạo đức,
văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, không phải tùy tiện, vu
khống, bôi nhọ, lừa bịp, xâm hại đến an ninh quốc gia, trật tự xã hội, quyền tự
do của người khác. Cá nhân, tổ chức phải chịu trách nhiệm về các hành vi, ứng
xử trên mạng xã hội; phối hợp với các cơ quan chức năng để xử lý hành vi, nội
dung thông tin vi phạm pháp luật.
Pháp
luật của Việt Nam “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là
ai”. Thực tế cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam đã và đang diễn
ra đúng như thế. Vì thế, những cá nhân “té nước theo mưa”, “theo đóm ăn tàn”,
mờ mắt theo chân các thế lực thù địch, phản động để chống phá, đi ngược lại lợi
ích của quốc gia, dân tộc chắc chắn sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật hiện
hành, trả giá đắt cho những hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân hay cao hơn nữa là tội tuyên truyền
chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, mỗi người dân Việt
Nam cần nhận thức đúng đắn về quyền tự do ngôn luận, từ đó nêu cao ý thức trách
nhiệm khi tham gia mạng xã hội, đề cao cảnh giác, chủ động đấu tranh, phản bác,
ngăn chặn các luận điệu sai trái, thông tin xấu độc và tích cực chia sẻ, lan
tỏa các thông tin lành mạnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét