Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là chủ trương chiến
lược, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm tăng
cường sức mạnh quốc phòng, khả năng phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình
huống. Sau gần 40 năm đổi mới đất nước, việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân
đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần tăng cường sức mạnh quốc phòng cả về
tiềm lực, lực lượng và thế trận, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Xây
dựng nền quốc phòng toàn dân là quan điểm cơ bản chỉ đạo việc xây dựng nền quốc
phòng của nước ta, thuộc trách nhiệm
của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân
là nòng cốt. Thực tiễn sự nghiệp đổi mới gần 40 năm qua cho thấy, tiềm lực của
nền quốc phòng toàn dân được xây dựng khá toàn diện, lòng tin của nhân dân với
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, tăng cường; công tác
giáo dục quốc phòng và an ninh được chú trọng; kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa
học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, tạo tiền đề huy động các nguồn lực thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Lực lượng vũ trang được xây dựng vững
mạnh về chính trị, sức chiến đấu ngày càng cao, từng bước tiến lên hiện đại,
phát huy tốt vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Khu vực phòng thủ
các tỉnh, thành phố được xây dựng ngày càng vững chắc; hệ thống công trình
phòng thủ biển, đảo, biên giới, địa bàn chiến lược trọng yếu từng bước hoàn
thiện; việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an
ninh, xây dựng cơ sở chính trị được chú trọng; thế trận quốc phòng toàn dân,
thế trận an ninh nhân dân được gắn kết khá chặt chẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp
của các lực lượng trong từng ngành, địa bàn và cả nước. Tuy nhiên vẫn còn những
hạn chế, đó là: Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc còn hạn chế; việc kết hợp kinh tế
với quốc phòng tại các địa bàn chiến lược, biển, đảo còn có mặt chưa chặt chẽ;
sự phối hợp giữa các lực lượng vũ trang trong khu vực phòng thủ có lúc, có nơi
hiệu quả chưa cao; việc nắm, dự báo, xử lý tình huống về quốc phòng, an ninh ở
một số địa phương, cơ sở có lúc còn bị động, bất ngờ, thậm chí có nội dung chưa
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Dự báo
trong thời gian tới, tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, diễn biến nhanh, khó đoán định. Cạnh tranh chiến lược
giữa các nước lớn, xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ gia tăng, khó kiểm
soát. Biển Đông tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm gia tăng xung đột. Trong nước,
“Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng cảnh báo vẫn còn hiện hữu, có mặt sẽ còn diễn
biến phức tạp và gay gắt hơn. Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; sự xuống cấp
về các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống; những mâu thuẫn, bức xúc trong xã
hội sẽ còn diễn biến phức tạp; phân cực giàu - nghèo có xu hướng ngày càng gia
tăng”(1), nếu không được ngăn chặn, đẩy lùi, sẽ trở thành nhân tố
trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ. Cùng với đó, các thế
lực thù địch, phản động tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, sự nghiệp
đổi mới; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà
nước, quân đội, ảnh hưởng đến sức mạnh tổng hợp của đất nước.
Để đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước bối cảnh, tình hình mới,
cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân theo định hướng sau:
Về mục
tiêu: Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế; không
ngừng nâng cao sức mạnh phòng thủ đất nước, ngăn ngừa, phòng, chống, sẵn sàng
ứng phó hiệu quả các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền
thống; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; nền văn hóa
và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây
dựng và phát triển đất nước; thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Về quan
điểm:
Một là,
giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước
đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Hai là,
xây dựng nền quốc phòng toàn dân toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực,
tự cường, hiện đại, chủ động hội nhập quốc tế.
Ba là,
xây dựng nền quốc phòng toàn dân bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước, sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bốn là,
ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh, sẵn sàng đánh
thắng chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong mọi tình huống.
Về nội
dung:
Một là, xây dựng tiềm lực quốc
phòng
Hai là, xây dựng lực lượng quốc
phòng.
Ba là, xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.
Để
tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Viêt Nam xã hội chủ nghĩa, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải
pháp sau:
Thứ
nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
đối với quốc phòng.
Quốc phòng là lĩnh vực hoạt
động liên quan trực tiếp đến sự an - nguy, thịnh - suy, mất - còn của Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, nên cần thực hiện đúng nguyên tắc Đảng lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, Nhà nước quản lý, điều hành tập trung,
thống nhất đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng thống nhất,
đồng bộ cơ cấu tổ chức đảng trong lãnh đạo công tác quốc phòng từ Trung ương
đến địa phương. Bổ sung các nội dung lãnh đạo về quốc phòng, cơ chế hoạt động
và trách nhiệm phối hợp của từng cấp, ngành, địa phương liên quan đến hoạt động
quốc phòng, đặc biệt khi xử lý các tình huống phức tạp. Nhà nước cụ thể hóa
đường lối, chính sách của Đảng về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc thành pháp luật,
nghị định và tổ chức chỉ đạo thực hiện các kế hoạch về quốc phòng gắn với
chương trình, kế hoạch xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại. Tiếp
tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật và giáo dục, tuyên truyền, phổ
biến các văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh
công tác quy hoạch về quốc phòng và phổ biến tới các bộ, ngành, địa phương tạo
sự thống nhất thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng.
Thứ
hai, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, nâng cao ý thức trách
nhiệm của toàn dân, cả hệ thống chính trị về thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Cần đẩy
mạnh tuyên truyền, giáo dục phổ biến nâng cao nhận thức và tổ chức thực hiện
các chủ trương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính
quyền, phát huy vai trò của các ban, ngành, đoàn thể, tạo sức mạnh tổng hợp và
sự thống nhất, đồng bộ trong triển khai thực hiện công tác giáo dục, bồi dưỡng
kiến thức quốc phòng. Tiếp tục đổi mới chương trình, giáo trình, tài liệu giáo
dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng phù hợp với từng đối tượng, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả
hoạt động của hội đồng giáo dục quốc phòng và an ninh các cấp. Phát huy tốt vai
trò tham mưu, tư vấn giúp các cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc trong tình hình mới.
Thứ
ba, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nền tảng vững chắc xây dựng
“thế trận lòng dân” gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc.
Củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nền tảng xây dựng “thế trận lòng dân” vững
chắc sẽ tạo nên sức mạnh chính trị, quân sự, quốc phòng, làm thất bại mọi âm
mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và chiến tranh xâm lược của
kẻ thù. Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc chính là quy tụ lòng người, tạo
đồng thuận, tin tưởng tuyệt đối của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; quy tụ được lực lượng vật chất và tinh
thần to lớn của nhân dân, tạo nền tảng xây dựng “thế trận lòng dân” gắn với thế
trận quốc phòng toàn dân vững chắc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Nhân
dân là lực lượng đông đảo, được tổ chức chặt chẽ tham gia xây dựng, quản lý,
bảo vệ các công trình quân sự, quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự, an toàn
xã hội của các địa phương, trên các vùng, miền của đất nước.
Thứ
tư, kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, đối
ngoại với tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng.
Trong
từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa
học - công nghệ, đối ngoại của quốc gia, từng ngành và từng địa phương phải
luôn kết hợp chặt chẽ và hiệu quả với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng,
an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ và đối ngoại; chú
trọng trên hướng chiến lược, địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới,
biển, đảo; hình thành các khu vực chiến lược vững về chính trị, giàu về kinh
tế, mạnh về quốc phòng, an ninh. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ..., việc triển khai xây dựng kết
cấu hạ tầng, bố trí các công trình kinh tế, kỹ thuật, văn hóa... có quan hệ
rất lớn đến thế trận quốc phòng toàn dân. Do vậy, việc quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ... phải luôn chú trọng
kết hợp chặt chẽ với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng
“thế trận lòng dân” vững chắc; củng cố, tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Thứ
năm, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang
nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cả thời bình và khi có chiến
tranh.
Quán
triệt và tổ chức thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, nghị quyết của
Quân ủy Trung ương, nhất là nghị quyết của Trung ương về nhiệm vụ chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhằm xây dựng quân đội nhân dân,
công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên
hiện đại hóa một số quân, binh chủng, lực lượng... Đến năm 2025, cơ bản xây
dựng quân đội, công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm
2030 xây dựng quân đội nhân dân, công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, hiện đại, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất
lượng ngày càng cao, phù hợp với khả năng của nền kinh tế và của các địa
phương. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng,
miền, trên biển; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm
nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo. Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng
chủ động, tự chủ, tự cường, lưỡng dụng và hiện đại để bảo đảm tự chủ và tăng
cường vũ khí trang bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại cho quân đội nhân dân,
dân quân tự vệ.
Thứ
sáu, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, chủ động tạo môi trường hòa bình, ổn định
và lợi thế cho xây dựng, củng cố quốc phòng.
Quán
triệt và tổ chức thực hiện tốt chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng; phát
huy hiệu quả hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại
nhân dân, trong đó có đối ngoại quốc phòng. Xây dựng tiềm lực và thế trận đối
ngoại gắn kết với thiết lập thế trận quốc phòng liên hoàn bên trong với bên
ngoài biên giới quốc gia và trên không gian mạng. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại,
kết hợp chặt chẽ đối ngoại với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với
đối ngoại để thực hiện tốt phương châm chỉ đạo chiến lược “trong ấm, ngoài êm”
bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; tạo môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi cho
công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường sức mạnh
quốc phòng.
Việc đề
xuất định hướng về mục tiêu, quan điểm, nội dung, nhiệm vụ, giải pháp là nhằm
tiếp tục nâng cao hiệu quả và hướng tới xây dựng một nền quốc phòng toàn dân
vững mạnh cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn
từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét