Bản chất của âm mưu,
thủ đoạn “cách mạng màu”
Cách mạng màu (tiếng
Anh là colour revolution) là thuật ngữ chỉ các cuộc bạo lực chính trị có tổ
chức, chính biến phi vũ trang ở quốc gia có chủ quyền nhằm lật đổ nhà nước
đương nhiệm, gây ra khủng hoảng chính trị, đồng thời lập ra bộ máy cầm quyền
mới của lực lượng đối lập được Mỹ và phương Tây hậu thuẫn. Đó là chiến lược
toàn cầu của Mỹ sử dụng những phương thức, thủ đoạn điển hình là sự phản đối
quy mô lớn bằng biện pháp phi bạo lực nhằm mục đích thay đổi chế độ đang tồn
tại để thiết lập một chính phủ thân Mỹ và phương Tây kể từ thời kỳ hậu chiến
tranh lạnh đến nay.
Các đối tượng của
cách mạng màu là đảng phái, lực lượng chính trị đối lập trong nước hình thành
từ các trào lưu “dân chủ hóa xã hội” hoặc nảy sinh, phát triển từ sự mâu thuẫn,
phân hóa, phân lập của nội bộ đảng, chính phủ cầm quyền. Lãnh tụ phe đối lập
thường là những người bất mãn, cơ hội chính trị, bất đồng với đảng, chính phủ
cầm quyền được các thế lực nước ngoài hậu thuẫn, thậm chí nuôi dưỡng để thực
hiện chính biến khi có thời cơ thuận lợi. Các thế lực bên ngoài là kẻ khởi
xướng, định hướng, kích động, thúc đẩy, vạch kế hoạch, huấn luyện, tài trợ vật
chất, ủng hộ tinh thần và phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trong nước tổ
chức và tiến hành hoạt động cách mạng màu. Thế lực bên ngoài đóng vai trò “đạo
diễn”, lực lượng trong nước giữ vai trò” thực thi”. Đây là một hiện tượng chính
trị diễn ra thông qua nghị trường, đấu tranh chính trị (mít tinh, biểu tình,
tuần hành), dựa trên cơ sở những tiền đề trong một quốc gia, dân tộc có quan
điểm, chủ trương trái với lợi ích của Mỹ và phương Tây; được hậu thuẫn bởi lực
lượng bên ngoài nước can thiệp một cách thô bạo, trắng trợn vào công việc nội
bộ của nước đó nhằm lật đổ chính quyền hay sự cầm quyền của các đảng phái chính
trị để thay thế bằng đảng phái đối lập phù hợp với lợi ích Mỹ và phương Tây.
“Cách mạng màu” với
nhiều tên gọi khác là cách mạng nhung, đường phố, cam, hoa hồng, hoa tulip, hạt
dẻ,… xuất hiện lần đầu tiên với cách mạng Vàng ở Philíppin từ năm 1983, cách
mạng Nhung ở Tiệp Khắc năm 1989, cách mạng Đường phố ở Nam Tư năm 2000, cách
mạng Nhung ở Grudia năm 2003, cách mạng Cam ở Ucraina năm 2004 và 2014, cách
mạng hoa Tulip ở Cưrơgưxtan năm 2005, cách mạng cây Tuyết tùng ở Libăng năm
2005, cách mạng Xanh ở Iran năm 2009, cách mạng hoa Nhài ở Tuynidi từ năm 2010,
cách mạng hoa Sen ở Ai Cập từ năm 2011, cách mạng màu ở khu vực Trung Đông -
Bắc Phi (còn gọi là Mùa xuân Arập, gồm: Libi, Xyri, Angiêri, Yêmen, Marốc,
Gioócđani, Arậpxêút, Ôman, Irắc), cách mạng Ô dù ở Hồng Kông năm 2014,… và
những diễn biến chính trị tại Thái Lan, Campuchia, Mianma, Inđônêxia, Vênêxuêla gần đây nhất là Myanma,
Bangladesh… cho thấy bản chất nguy
hiểm từ sự can dự của các thế lực phương Tây vào tình hình nội bộ các nước có
chủ quyền, gây ra bất ổn chính trị kéo dài, ly khai dân tộc nhằm tìm mọi cách
thay thế chính quyền hiện tại.
Bản chất cách mạng
màu là phản cách mạng, là phương thức, thủ đoạn theo chủ nghĩa sôvanh nước lớn
sử dụng để loại bỏ chính quyền các nước không đi theo quỹ đạo của mình bằng
nhóm cầm quyền khác, mà chưa làm thay đổi bản chất bên trong của các nước. Lợi
dụng những mâu thuẫn, khó khăn của chính quyền đương nhiệm để tạo ra nguy cơ
chính trị, thông qua việc bầu cử tự do và “cách mạng đường phố” để lật đổ chính
quyền hợp pháp, dựng lên chính quyền thân Mỹ và phương Tây.
Ở các nước xã hội chủ
nghĩa và nước có xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội thì chúng tìm mọi cách lật đổ
và xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, lập đảng chính trị cầm quyền mới đi theo quỹ
đạo tư bản chủ nghĩa. Trong truyền thông phương Tây, cách mạng màu được miêu tả
rất hấp dẫn, giàu hứa hẹn như là những cuộc cách mạng dân chủ và nhân quyền phổ
biến, trong đó, người dân có quyền đòi hỏi trách nhiệm dân chủ và yêu sách đối
việc quản trị của chính quyền sở tại. Thực tế, cách mạng mang tính mị dân,
người dân không có quyền lợi gì, thậm chí sau cách mạng là khủng hoảng chính
trị, bất ổn xã hội kéo dài, mâu thuẫn giai tầng và dân tộc sâu sắc, kinh tế
chậm phát triển, đói nghèo và thương vong gia tăng, đẩy các nước lâm vào hỗn
loạn.
Các hoạt động nhằm
thực hiện “cách mạng màu” ở Việt Nam
Sau khi Đông Âu và
Liên Xô sụp đổ ngày 25/12/1991, đặc biệt từ khi Việt Nam hội nhập quốc tế sâu
rộng, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch gia tăng với những phương
thức, thủ đoạn ngày càng thâm độc, quy mô lớn, tác động tiêu cực đến đời sống
an ninh xã hội. Mục tiêu của chúng là xây dựng lực lượng, nhân tố và điều kiện
và tạo ra thời cơ để tiến hành cách mạng màu gây bạo loạn, xúi giục nhân dân
biểu tình, kích động chống đối chính quyền, tìm mọi cách lật đổ chế độ xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và sự lãnh đạo của Đảng.
Hoạt động tuyên
truyền phá hoại tư tưởng nhằm tạo tiền đề về tư tưởng, chính trị, xã hội cho
cuộc cách mạng màu ở Việt Nam. Đó là những hoạt động tuyên truyền xuyên tạc,
phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò cầm quyền của
Đảng. Những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị, những kẻ thâm thù cộng sản, đối
lập và phản bội cách mạng, những người a dua, kiêu ngạo, thậm chí có cán bộ,
đảng viên “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sử dụng những thủ đoạn và cách thức
đa dạng, phong phú, mà chủ yếu là các bài viết theo lối “bổn cũ soạn lại”, các
video, clip cắt ghép, các bloger trên một số báo chí nước ngoài, các trang mạng
xã hội có tư tưởng chống phá Việt Nam như: Chantroimoi media, BBC NEWS, VOA
tiếng Việt, Dân Báo, RFA,... ra sức đưa ra những luận điệu sai trái, thù địch,
bóp méo và phủ nhận hoàn toàn nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đồng thời, tuyên
truyền kêu gọi cải cách chính trị để tiến tới một nền dân chủ đa nguyên, đa
đảng, thiết lập quyền tự do phát ngôn, ra báo tư nhân, lập đảng, lập hội, phi
chính trị hóa lực lượng vũ trang... Các hoạt động tuyên truyền kích động các
hoạt động biểu tình, phá rối an ninh, trật tự xã hội, gây bạo loạn thông qua
các sự kiện chính trị lớn của Đảng, Nhà nước, các vấn đề xã hội phức tạp, nhạy
cảm như: tranh chấp, khiếu kiện, đình công, vấn đề tôn giáo, dân tộc, tranh
chấp biển đảo.
Hoạt động tác động,
chuyển hóa nội bộ, hình thành nhân tố chống đối từ bên trong, thúc đẩy “tự diễn
biến” nội bộ. Chúng lợi dụng quá trình hợp tác toàn diện với Việt Nam, chúng
tăng cường tiếp cận vào những vấn đề chính trị - xã hội nội bộ, thông qua các
dự án, chương trình nhằm hiện thực hóa mục tiêu dân chủ hóa chính trị. Chúng sử
dụng các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, các tập đoàn kinh tế đầu tư ở
Việt Nam, tìm mọi cách tác động làm thay đổi chính sách, pháp luật, cải cách hành
chính theo quỹ đạo dân chủ tư sản; tác động vào các cơ quan báo chí truyền
thông và đội ngũ phóng viên định hướng theo cách làm báo phương Tây, thúc đẩy
phát triển xã hội dân sự; thâm nhập vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo nhằm hình
thành “giá trị Mỹ”, tự do phương Tây để chuyển hóa tư tưởng giới trẻ, tạo đà
xây dựng lực lượng chính trị và tổ chức đối lập ở Việt Nam. Chúng tác động phân
hóa, xâm nhập, cài cắm cơ sở nội gián, in sao và phát tán rộng rãi tài liệu với
nội dung sai lệch gây mất niềm tin chế độ, thay đổi lập trường, hình thành lực
lượng chống đối từ nội bộ trong hệ thống chính trị.
Hoạt động thúc đẩy
hình thành “xã hội dân sự” hướng đến một xã hội đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập, tạo tiền đề cho sự ra đời các tổ chức chính trị đối lập ở Việt Nam.
Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng và các hoạt động trao đổi,
chuyển giao, hỗ trợ, hợp tác góp phần đẩy mạnh xã hội dân sự theo tiêu chí
phương Tây, tạo dựng hành lang pháp lý cho việc hình thành xã hội dân sự ở Việt
Nam. Thông qua quan hệ hợp tác, tài trợ cho các tổ chức đoàn thể quần chúng,
các thế lực thù địch đẩy mạnh hình thành các tổ chức đối lập (như: công đoàn
độc lập), tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam, đồng thời liên kết tạo thành mạng
lưới các hiệp hội nhằm tăng cường vị trí, tầm quan trọng của các tổ chức phi
chính phủ trong nước phối hợp tổ chức quốc tế để tiến hành cách mạng màu ở Việt
Nam khi có thời cơ.
Biện pháp ngăn ngừa
nguy cơ “cách mạng màu” ở Việt Nam
Xác định được những
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, Đảng và Nhà nước ban hành các chỉ
thị, nghị quyết, văn bản pháp lý nhằm tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý đối
với công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn nguy cơ cách mạng màu ở Việt Nam.
Đặc biệt là chủ trương, chính sách về công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ,
phòng và chống “diễn biến hòa bình”; công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, xuất
bản; hoàn thiện hệ thống pháp lý trong đấu tranh với hoạt động thù địch, tăng
cường quản lý nhà nước đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài và tổ chức
phi chính phủ Việt Nam. Đẩy mạnh các biện pháp ngăn ngừa hoạt động thù địch bên
ngoài tạo dựng tổ chức chính trị đối lập gây nguy cơ cách mạng màu ở Việt Nam.
Nâng cao chất lượng các tổ chức, cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ vô hiệu
hóa những kế hoạch, phương thức tổ chức huấn luyện, đào tạo lực lượng hậu
thuẫn, tài trợ vật chất, móc nối các đối tượng trong nước, tạo ảnh hưởng chính
trị của các đối tượng thù địch đối với quần chúng nhân dân và với dư luận xã
hội. Phối hợp chặt chẽ các cấp chính quyền, lực lượng vũ trang cơ sở, mạng lưới
nhân dân triển khai các biện pháp nghiệp vụ, giám sát chặt chẽ các đối tượng
cầm đầu, bao vây, phong tỏa, tước bỏ điều kiện hoạt động của đối tượng thù
địch.
Đồng thời, ngăn chặn,
bóc gỡ, triệt phá mọi hoạt động hình thành tổ chức đối lập ở trong nước dưới
danh nghĩa hợp tác, chương trình, dự án, tài trợ,… nhằm thúc đẩy cho ra đời ồ
ạt các tổ chức xã hội dân sự, đảng phái chính trị phản động, tranh giành ảnh
hưởng, thu hút quần chúng, gây mất niềm tin của nhân dân với chính quyền, tạo
ra mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo và đòi độc lập. Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ
đấu tranh ngăn chặn các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề chính trị, xã hội phức
tạp để kích động thành những làn sóng chống đối cục bộ, biểu tình, bạo loạn,
gây áp lực với Đảng và Nhà nước.
Có thể khẳng định một
điều, không có liều thuốc nào hữu hiệu bằng việc tự đề kháng và ngăn ngừa dịch
bệnh từ xa. Loại bỏ tham nhũng tiêu cực, xử lý các cá nhân cán bộ biến chất,
suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa là điều chúng ta bắt buộc phải làm. Làm
tốt việc này, không những đất nước phát triển giàu mạnh mà niềm tin của nhân
dân dành cho Đảng, chính quyền sẽ tăng lên. Khi nhân dân có niềm tin, họ sẽ
không dễ bị lôi kéo, kích động. Bài học ở nhiều quốc gia trên thế giới cho
chúng ta thấy rõ ràng rằng phải cảnh giác với chúng và cũng cần phải chấn chỉnh
lại chính mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét