Tìm kiếm Blog này

Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2024

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

 

Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạc cho rằng tỷ lệ nữ giới trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước vẫn còn rất ít, con đường dẫn tới quyền lực cho phụ nữ thường là đi qua Quốc hội, có những vị trí không mấy quan trọng trong chính trị Việt Nam; kích động, tuyên truyền với luận điệu: Đảng phải vượt lên lên tính hình thức về đại diện nữ ngay trong các cơ quan đưa ra quyết định cao nhất. Đây là âm mưu thủ đoạn hết sức thâm độc và nham hiểm của các thế lực thù địch nhằm chống phá chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta


Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký kết tham gia Công ước của Liên Hợp quốc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) vào ngày 29/7/1980 và được phê chuẩn vào ngày 27/11/1981. Vì vậy, ở Việt Nam sẽ không có chuyện “quyền chính trị của phụ nữ tham gia chính trường có sự phân biệt”.

Đồng thời, cho đến nay Việt Nam là một trong số các quốc gia có khung pháp lý và hệ thống chính sách khá toàn diện, đầy đủ để thúc đẩy bình đẳng giới. Ngay từ Hiến pháp năm 1946 đã nêu hai quyền cơ bản và khái quát của công dân Việt Nam là “tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa”; “tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật”. Trong Hiến pháp năm 2013 cũng nêu rõ, công dân nam nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Bên cạnh đó, các quyền cơ bản của phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới cũng được đề cập đến trong các văn bản luật như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và Gia đình, Pháp lệnh Dân số, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới…


Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 đã xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, về cơ bản bảo đảm sự bình đẳng thực chất giữa nam và nữ trên mọi lĩnh vực với 7 mực tiêu cụ thể. Trong đó, mục tiêu 1 là tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo nhằm giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Phấn đấu cán bộ phụ nữ tham gia cấp ủy Đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp từ 35 - 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới.


Kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI (2002-2007), phụ nữ chiếm 27,31% trong tổng số đại biểu; khóa XII (2007-2011) tỷ lệ này là 25,76%; khóa XIII (2011-2016): 24.40%. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ XIII, cán bộ nữ tham gia cấp ủy cả 3 cấp đều tăng về số lượng và chất lượng. Cụ thể, ở cấp cơ sở, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đạt 21% (tăng 2%) so với nhiệm kỳ trước. Đối với cấp trên cơ sở đạt 17%, cũng tăng 2%. Đối với các Đảng bộ trực thuộc Trung ương, tỷ lệ nữ đạt 16% và tăng 3% so với nhiệm kỳ trước. Có hơn 4.200 cán bộ nữ được lựa chọn, giới thiệu và bầu giữ chức vụ cán bộ chủ chốt trong Đảng và chính quyền ở cả 3 cấp… Đây là tỷ lệ tương đối cao qua các kỳ bầu cử Quốc hội và đã đưa Việt Nam thuộc nhóm các nước có tỷ lệ nữ đại biểu trong cơ quan lập pháp cao nhất châu Á và cũng như trên thế giới (trên 25%). Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nước ta cao hơn hẳn so với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và nhiều nước trong khu vực. Theo Liên minh các nghị viện thế giới, Việt Nam đứng thứ 37 trong tổng số 188 nước trên thế giới về tỷ lệ phụ nữ trong cơ quan lập pháp.


Số liệu của trang tin Nhóm Nữ nghị sỹ Việt Nam (thuộc Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội) cho thấy, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội ở nước ta liên tục tăng lên trong thời gian qua và duy trì ở mức cao. Từ năm 1999 đến nay, Việt Nam luôn có nữ Phó Chủ tịch nước. Tỷ lệ phụ nữ là bộ trưởng, thứ trưởng, vụ trưởng cũng tăng lên. Tại các cấp địa phương, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Nhân dân cũng tăng lên và nhiều nơi có nữ chủ tịch. Chính phủ cũng có các cơ quan chuyên trách chăm lo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho phụ nữ như Vụ Bình đẳng giới (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), Vụ Gia đình (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Vụ Sức khoẻ bà mẹ trẻ em (Bộ Y tế),... Đặc biệt là Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam được thành lập từ năm 1985 có cơ cấu tổ chức từ trung ương đến địa phương, có chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vấn đề liên ngành liên quan đến sự tiến bộ của phụ nữ.


Thực tiễn trên cho thấy, quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam được bảo đảm tốt, tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy, chính quyền không chỉ cao hơn các quốc gia trong khu vực châu Á, mà còn chiếm tỷ lệ cao so với tỷ lệ chung của toàn cầu. Việc các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc cho rằng Việt Nam vi phạm quyền chính trị của phụ nữ là thái độ thiếu khách quan nhằm mục đích chống phá, phủ nhận các thành quả mà Việt Nam đã đạt được trong quá trình thực hiện bình đẳng giới, trong đó có bình đẳng trên lĩnh vực chính trị. Tất nhiên, chúng ta cũng không tự mãn mà cần tiếp tục phấn đấu để sớm nâng cao hơn nữa tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy, chính quyền các cấp, nhằm rút ngắn hơn nữa khoảng cách và tiến tới nam nữ bình quyền trên mọi lĩnh vực.

 

NVI42 - Kiên quyết đấu tranh làm thất bại luận điệu tuyên truyền đòi “cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam”

 

Hiện nay, các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị đang ra sức chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam. Càng gần đến thời điểm tổ chức Đại hội XIV của Đảng, sự chống phá đó của chúng càng quyết liệt hơn. Trong đó, đòi “cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam” là luận điệu tuyên truyền cực kỳ thâm độc, nguy hiểm. Vì thế, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mưu đồ trên là việc làm cần thiết, quan trọng.

Mục tiêu xuyên suốt, không bao giờ thay đổi của các thế lực thù địch là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nếu như trước kia, chúng thường sử dụng các tổ chức đối lập, đấu tranh nghị viện,… để từng bước làm tan rã thể chế chính trị ở các quốc gia đối lập; thì nay, trong bối cảnh quốc tế mới, hình thức, phương pháp, thủ đoạn chống phá còn đa dạng, tinh vi và thâm độc hơn. Đặc biệt, trước thềm Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, trong đó ra sức tuyên truyền kích động đòi “kiến nghị khẩn cấp về cải cách thể chế” ở Việt Nam, theo hướng “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”. Chúng ngụy biện rằng, chỉ có thực hiện “đa đảng đối lập” mới có dân chủ thật sự, còn nếu một đảng thì tất yếu sẽ dẫn đến chuyên quyền, độc đoán trong quá trình lãnh đạo đất nước, dân tộc. Thật là hết sức kệch cỡm, lố bịch! Đó là chưa nói tới việc chúng cố tình quên hoặc lờ đi lịch sử cách mạng Việt Nam đã từng tồn tại nhiều đảng, nhưng rồi đều tự rút sau khi đã hoàn thành sứ mệnh của mình, chỉ còn lại duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân, dân tộc thừa nhận, giao phó quyền lãnh đạo đất nước. Không phụ lại sự ủy thác và tin cậy đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc trước đây và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Thực tiễn lịch sử đó là không thể phủ nhận. Vậy mà các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị vẫn ra rả luận điệu kích động đòi phải “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” - thật trơ trẽn, nực cười. 

Thực chất của cái gọi là “cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam” không gì khác hơn là mưu toan nhằm từng bước hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng ta, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Âm mưu, thủ đoạn đó của chúng gần đây có phần tiến hóa hơn, hình thức cũng đa dạng hơn và tính chất cũng thâm độc hơn. Chúng thường lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm của ta trong quá trình đổi mới đất nước để khoét sâu, thổi phồng, theo kiểu biến cái nhỏ thành cái lớn, cá biệt thành phổ biến, hiện tượng thành bản chất, từ đó quy kết thô thiển rằng: Đảng ta yếu kém, không đủ sức lãnh đạo đất nước. Cũng từ đó làm chệch hướng, lái sự nghiệp cách mạng nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đáng chú ý là, chúng “luồn lách” vào từng vấn đề, từng khuyết điểm nhỏ nhất của sự nghiệp đổi mới để chống phá, nhất là những vấn đề nhạy cảm, như: quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; thậm chí cố tình lý giải sai lệch bản chất của những vấn đề trên để thực hiện mưu đồ đen tối. Chúng cho rằng: “quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay đã xây dựng một xã hội mà vỏ ngoài là chủ nghĩa xã hội, nhưng bên trong là chủ nghĩa tư bản”.

Đại hội VI của Đảng (12-1986) đã quyết định đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đến nay Đảng ta tiếp tục khẳng định mục tiêu của đổi mới là xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được xây dựng có hiệu quả hơn, thiết thực hơn trên thực tế; trong đó, phải kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, xây dựng Đảng là khâu then chốt, v.v.

Trước yêu cầu, điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi chúng ta phải nắm vững quy luật vận động khách quan của xã hội để có quyết sách phù hợp, giải quyết đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Trong đó, cần đặt đúng vị trí đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế; tiếp tục tận dụng thời cơ do hội nhập mang lại để thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Đồng thời, có biện pháp, cách làm, bước đi đồng bộ, phù hợp để tháo gỡ những bất cập về tổ chức bộ máy, thể chế, cơ chế, chính sách. Như vậy sẽ không vô tình tạo ra kẽ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng quá trình đổi mới đất nước để tuyên truyền kích động đòi “cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam”.

Mặt khác, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, xây dựng tổ chức đảng các cấp trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Trong đó, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực và phẩm chất ngang tầm nhiệm vụ là khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định đến thành công của sự nghiệp đổi mới. Đồng thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực xã hội và nhà nước thuộc về nhân dân. Đó là cơ sở, nền tảng vững chắc của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta; đồng thời là vấn đề cấp thiết, yếu tố trực tiếp làm thất bại luận điệu đòi “cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam” của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị.

NVI42 - NHẬN DIỆN ÂM MƯU, LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ, XUYÊN TẠC BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG CÔNG TÁC NHẬN SỰ Ở CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY

 

Trong thời gian gần đây, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng không gian mạng để chống phá cách mạng Việt Nam bằng nhiều phương thức và thủ đoạn khác nhau. Từ ngụy tạo hoặc nhân danh chiêu bài đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền đến mượn cớ bảo vệ môi trường… để kích động các thành phần bất hảo có tư tưởng cực đoan nhằm tập hợp lực lượng, lập các hội, nhóm chống đối.

Với chiêu bài lu loa rằng Việt Nam vi phạm dân chủ, vi phạm nhân quyền trong bình đẳng giới. Vu cáo Việt Nam phân biệt đối xử với phụ nữ; hay xuyên tạc dưới chế độ “đảng trị”, phụ nữ Việt Nam đang có bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, bất bình đẳng về thu nhập và vị trí việc làm.

Cụ thể: Ngày 01/11/2024, trên trang mạng của tổ chức khủng bố “Việt Tân” tán phát bài “ chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, với nội dung nói xấu, xuyên tạc. bài viết cho rằng tỷ lệ nữ giới trrong các  cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước vẫn còn rất ít, con đường dẫn tới quyền lực cho phụ nữ thường là đi qua Quốc hội, có những vị trí không mấy quan trọng trong chính trị Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng còn kích động, tuyên truyền với luận điệu: Đảng phải vượt lên trên tính hình thức về đại diện nữ ngay trong các cơ quan đưa ra quyết định cao nhất.

Bằng luận điệu xảo trá, các thế lực thù địch, phản động đang âm mưu làm cho một bộ phận nhân dân hiểu sai về chính sách bình đẳng giới của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, là chính sách phát triển đội ngũ cán bộ nữ trong cơ quan lãnh đạo của Đảng và Bộ máy nhà nước.

Bình đẳng giới là một trong những mục tiêu phấn đấu của các quốc gia trên thế giới nhằm hướng đến một xã hội tiến bộ, bình đẳng và phát triển bền vững, Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Nam - Nữ bình quyền là một trong mười nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Điều này được ghi nhận trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng” năm 1930. Để thể hiện rõ quyết tâm thực hiện nhiệm vụ đó Đảng ta đa có nhiều chính sách, quy định nhằm tạo điều kiện và cơ hội để đội ngũ cán bộ nữ nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt, đáp ứng tiêu chuẩn của từng vị trí công tác, nhạy bén, năng động, sáng tạo, từng bước vươn lên, phát huy trí tuệ và sức lao động của bản thân; đồng thời là công cụ để tăng cường sự tham gia của cán bộ nữ, phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, tham gia các cơ quan dân cử. Từ đó, vai trò, vị thế của cán bộ nữ được nâng lên và có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của ngành, cơ quan, đơn vị và của cả nước.

Rectangle: Rounded Corners: Phụ nữ Bình Phước trông bình đẳng giớiHiện nay, trên toàn quốc, tỷ lệ nữ sinh viên trong các trường đại học cao hơn nam giới; tỉ lệ nữ có trình độ thạc sĩ chiếm 40%, tỉ lệ nữ có trình độ tiến sĩ cũng tăng lên. Số giáo sư, phó giáo sư là nữ tăng lên hàng năm. Số giảng viên nữ trong các                                                               trường đại học, cao đẳng chiếm gần 50%. Tỷ lệ cán bộ nữ được quy hoạch vào các chức danh quản lý, lãnh đạo và cấp ủy các cấp đã tăng lên. Năng lực của cán bộ nữ được nâng lên rõ rệt, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác và chuẩn hóa theo chức danh.

Qua đây có thể dễ nhận thấy rằng ở Việt Nam công tác cán bộ luôn được tiến hành đúng quy trình và không có sự phân biệt Nam - Nữ, như Hiến pháp 2013 khẳng định “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Việt Nam là một trong số các quốc gia có khung pháp luật và chính sách khá toàn diện, đầy đủ để thúc đẩy bình đẳng giới. Những luận điệu xuyên tạc chống phá của kẻ thù là hoàn toàn vô căn cứ và phản khoa học, chúng ta cần phải cẩn trọng trước những âm mưu thâm hiểm, những luận điệu xuyên tạc đó. Không để kẻ thù lợi dụng kẻ hỡ để xuyên tạc chống phá, chi rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, và lợi dụng vào đó để thức đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

NVI42 - CẢNH GIÁC ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC ĐÒI “ĐẤU TRANH ĐÒI LẠI QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ”, “TỰ DO INTERNET”

 

Thời gian qua, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng một số hạn chế, khuyết điểm còn tồn tại trong công tác quản lý báo chí, quản lý Internet ở nước ta để tuyên truyền, xuyên tạc, đòi “đấu tranh đòi lại quyền tự do báo chí”, “tự do Internet”, với âm mưu gây hoang mang dư luận, chia rẽ nội bộ, giảm uy tín của Đảng và Nhà nước, gây bất ổn về chính trị. Cùng với đó, thông qua sự việc một số nhà báo bị xử lý do vi phạm pháp luật, đạo đức nghề nghiệp, chúng đưa ra quan điểm cho rằng Nhà nước CHXHCN Việt Nam bóp nghẹt tự do ngôn luận, triệt tiêu quyền tự do báo chí”,.... Thực chất, đây là một thủ đoạn trên mặt trận tư tưởng của các thế lực thù địch trong giai đoạn hiện nay cần được phát hiện, đấu tranh kịp thời.

Báo chí là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp; là diễn đàn của nhân dân. Thực tế quá trình lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước ta cho thấy: Đảng và Nhà nước ta luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để quyền tự do báo chí được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Đảng, Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Tại Điều 25, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”

Luật Báo chí của Việt Nam (2016) quy định: Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; có nhiệm vụ, quyền hạn: Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân. Không chỉ thể chế hóa trên “giấy tờ” mà quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam còn được tổ chức thực hiện tốt trên thực tế. Nhờ vậy, thời gian qua, đa số các cơ quan báo chí ở Việt Nam đã phát huy tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình, cung cấp thông tin đến nhân dân chính xác, khách quan, kịp thời, góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Cũng theo quy định của pháp luật nước ta, công dân có quyền sáng tạo tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phản hồi thông tin trên báo chí; tiếp cận thông tin báo chí; liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí; phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội,

Như vậy mọi người dân đều dễ dàng tham gia vào hoạt động báo chí, đều có thể trở thành một nhà báo tự do tìm kiếm, phát hiện đề tài và đưa ra sản phẩm báo chí, đảm bảo quyền tự do hoạt động theo quy định của Luật Báo chí và các luật liên quan. Song, mọi hành vi lạm dụng, lợi dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc.

Về quyền tự do Internet, Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam luôn nhất quán quan điểm bảo đảm mọi điều kiện cho sự phát triển toàn diện của người dân, trong đó bảo đảm quyền tiếp cận và sử dụng internet là một điển hình.

Trong những năm gần đây, mạng xã hội đã trở nên phổ biến vào cuộc sống hàng ngày của hầu hết người Việt Nam cùng với tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh và internet ngày càng tăng của Việt Nam. Nhờ có dân số trẻ, hiểu biết về kỹ thuật số và có tính kết nối cao, Việt Nam đã nằm trong số các quốc gia có số lượng người dùng mạng xã hội cao nhất trên toàn thế giới.

Các phương tiện truyền thông trên internet như báo điện tử, website, blog, thư điện tử, mạng xã hội… tại Việt Nam hiện nay đã đóng góp vào sự phát triển trên các lĩnh vực, thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa Việt Nam và thế giới. Đặc biệt với sức lan tỏa nhanh mạng xã hội đã trở thành kênh thông tin không thể thiếu trong đời sống xã hội hiện nay, nhất là giới trẻ.

Cùng với đó, do những mặt trái của Internet như: Một số thông tin được đăng tải không đúng sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm cá nhân hay tổ chức, hình ảnh nhạy cảm, phản cảm,…; Nhà nước ta luôn chủ động làm tốt công tác quản lý nhà nước về Công nghệ thông tin và Khoa học - Công nghệ, bảo đảm giữ cho không gian mạng lành mạnh, không ô nhiễm. Qua đó, góp phần tạo điều kiện và môi trường tốt nhất để mọi người dân Việt Nam được sử dụng Internet thuận tiện và hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu, mục đích và lợi ích chính đáng của mỗi người.

Từ thực tế đó, mỗi người trong chúng ta khi tiếp cận các nguồn thông tin, đặc biệt là trên không gian mạng cần hết sức cảnh giác, tỉnh táo, tránh cổ suý cho các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về quyền tự do báo chí, quyền tự do Internet. Đồng thời, tích cực tham gia tố giác, đấu tranh với mọi biểu hiện, hành vi sai trái của các tổ chức, cá nhân, góp phần xây dựng môi trường thông tin lành mạnh, phục vụ cho sự phát triển chung của đất nước./.

NVI42 - CẢNH GIÁC TRONG NHẬN DIỆN ĐỐI TƯỢNG VÀ THỦ ĐOẠN CHỐNG ĐỐI, CHIA RẼ MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÂN DÂN VỚI ĐẢNG

 

Theo KQSC - Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nhân dân là mọi người dân Việt Nam, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu - nghèo, quý - tiện, trong đó công - nông chiếm tuyệt đại đa số - đó là nền tảng của quốc dân. Người thường gọi Nhân dân bằng nhiều cách gọi khác nhau, như “dân”, “dân ta” hay “đồng bào”, thể hiện sự gần gũi và dễ hiểu. Trong nhiều bài viết, bài phát biểu, Người luôn khẳng định vai trò, sức mạnh to lớn của Nhân dân và căn dặn “Ta đừng có làm gì trái ý dân”, bởi “Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”.

          Mối quan hệ giữa Nhân dân với Đảng là mối quan hệ máu thịt, là nguồn sức mạnh to lớn, làm nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng đặc biệt của mối quan hệ này, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo, củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhân dân và Đảng, xác định “dân là gốc”, lấy hạnh phúc của nhân dân, lấy độc lập tự do của nước nhà làm mục đích hoạt động.    

Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước tăng cường hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu, hợp tác với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới thì các thế lực thù địch lại tìm đủ mọi cách để phá hoại, chia rẽ khôi đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Nhân dân với Đảng bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc. Bởi vậy việc nhận diện đúng các âm mưu, thủ đoạn đó trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.

    Căn cứ vào nội dung, phương thức tiến hành chống phá, chia rẽ mối quan hệ giữa Nhân dân với Đảng của các thế lực thù địch, phản động hiện nay, chúng ta có thể chia thành 3 nhóm cơ bản sau:

    1. Nhóm những kẻ đang đại diện cho tư tưởng tư sản, cho chủ nghĩa thực dân, đế quốc

    Chúng là những kẻ từng thất bại thảm hại trong chiến tranh với Việt Nam, song không từ bỏ âm mưu phá hoại sự nghiệp cách mạng XHCN của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

    Chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân là tách người lãnh đạo với lực lượng cách mạng, là phương thức nhằm vô hiệu hóa vai trò của Đảng, làm tê liệt sức mạnh quần chúng. Âm mưu, thủ đoạn của chúng được thể hiện trong chiến lược “diễn biến hòa bình”. Chúng tập trung khoét sâu mâu thuẫn giữa đảng cầm quyền, bộ máy nhà nước, cá nhân những người đứng đầu đảng, chính phủ với nhân dân trong các nước có tư tưởng chống Mỹ. Và chúng đã thành công ở nhiều nơi, gây sụp đổ hệ thống các nước XHCN ở Liên Xô, Đông Âu và bất ổn chính trị triền miên ở rất nhiều quốc gia đang phát triển...Nhưng chúng đã và đang thất bại ở Việt Nam. Vì lẽ đó, chúng đang tiếp tục tập trung sử dụng mọi thủ đoạn để có thể phá vỡ mối quan hệ giữa nhân dân Việt Nam với Đảng Cộng sản Việt Nam.

    2. Nhóm những kẻ lựa chọn con đường đi ngược lại với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

    Trong chiến tranh thì chúng cầm súng chống lại đồng bào, trong hòa bình thì làm công cụ đắc lực cho “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ... Một bộ phận từng làm việc trong bộ máy chính quyền ngụy Sài Gòn, được người Mỹ nuôi dưỡng để phục vụ chiến tranh Việt Nam, sau ngày 30/4/1975 thì bỏ Tổ quốc ra đi. Trong đó, một số vì nuối tiếc lợi ích ngày xưa nên luôn tuyên truyền cái gọi là “phục quốc”. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ những người có nhận thức hạn chế, có lối sống vị kỷ hay thế hệ trẻ sống bên hải ngoại, chưa từng về nước, chỉ nghe thông tin tuyên truyền một chiều nên đã bị chiêu bài “phục quốc” lừa gạt để rồi tham gia vào các tổ chức phản động, hoặc ủng hộ tiền của cho chúng.

    Với chiêu bài “phục quốc”, chúng được hưởng lợi rất nhiều từ nguồn lực tài chính để lập ra các tổ chức chính trị phản động. Chúng hoạt động ở nước ngoài, với danh nghĩa là các tổ chức dân sự, lồng mục tiêu chính trị vào các tổ chức văn hóa, giáo dục, kinh tế phi chính phủ. Chúng thường bí mật tổ chức đưa người về Việt Nam, thực hiện các hoạt động xây dựng lực lượng, lôi kéo, kích động quần chúng gây bất ổn xã hội, rồi tung tin Đảng, chính quyền nước ta đàn áp những người dân đang “nói lên tiếng nói đòi quyền lợi của mình”...

    3. Nhóm những kẻ trong chiến tranh thì hèn nhát, trong hòa bình thì lười biếng, có điều kiện thì bán mình đổi lấy tiền tài, có cơ hội thì chui sâu, leo cao vào bộ máy Đảng, Nhà nước để trục lợi

    Khi cơ chế thị trường ở Việt Nam được xác lập, chúng không nỗ lực lao động mà lợi dụng “mặt trái”, “sân sau”, sẵn sàng “đi đêm” để mưu toan lợi ích. Chúng còn là “một bộ phận không nhỏ” cán bộ trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước; là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, là nhà khoa học, chuyên gia có uy tín... Song vì nhiều lý do, chủ yếu là bị chủ nghĩa cá nhân chi phối dẫn đến tha hóa, biến chất, rồi sa ngã, bị mua chuộc, khống chế, lôi kéo... chống Đảng, Nhà nước, biểu hiện ra bên ngoài là thái độ bất mãn với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đòi “lật lại”, “xét lại” lịch sử dân tộc từ khi có Đảng...

    Như vậy, việc nhận diện đúng về các nhóm đối tượng chống phá, chia rẽ mỗi quan hệ giữa Nhân dân với Đảng cùng các thủ đoạn chống phá của chúng là trách nhiệm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị, ở mọi cấp, mọi ngành, mọi cán bộ, đảng viên và mỗi một người dân. Điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên phải không ngừng tự nghiên cứu, học tập, trau rèn nhận thức, bản lĩnh chính trị, trước những tư tưởng sai trái, lệch lạc, không để mình bị “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn phát huy vai trò “hạt nhân” tại cơ sở để đưa những thông tin chính thống, tích cực, trở thành tấm gương sáng góp phần tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng, để từ đó khiến các thế lực thù địch không còn “đất” để xuyên tạc, chống phá./.

 

NVI42 - Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc, chống phá về công tác nhân sự Đại hội Đảng

 

            Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương đang khẩn trương chuẩn bị các điều kiện để tổ chức Đại hội đảng bộ các cấp, trong đó, công tác nhân sự là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đây là thời điểm các thế lực xấu, cơ hội, thù địch tìm mọi cách xuyên tạc, tung tin, tác động, chia rẽ nội bộ, phá hoại công tác nhân sự nói riêng và công tác xây dựng Đảng nói chung.

        Công tác nhân sự có vị trí, vai trò, ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là nhân tố bảo đảm cho thành công của Đại hội và triển khai thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đại hội; có ý nghĩa chiến lược gắn liền với vận mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ và sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy, nhiều lần cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Công tác nhân sự là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ “then chốt” của “then chốt” và chính cố Tổng Bí thư trực tiếp làm Trưởng Tiểu ban Nhân sự (được Ban Chấp hành Trung ương Đảng thành lập tại Hội nghị lần thứ Tám - tháng 10/2023) để chỉ đạo công tác này. Bên cạnh đó, trong Bài phát biểu của đồng chí cố Tổng Bí thư tại phiên họp đầu tiên của Tiểu ban Nhân sự (ngày 13/3/2024) đã đánh giá: “Các phần tử xấu, cơ hội, thù địch đã nhân dịp này tìm mọi cách xuyên tạc, tung tin, tác động, chia rẽ nội bộ ta hòng phá hoại công tác nhân sự nói riêng, công tác xây dựng Đảng nói chung của chúng ta, rất thâm độc và nguy hiểm…”. 

        Thời gian qua, công tác nhân sự đã được cấp ủy các cấp rà soát, lựa chọn, quy hoạch, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm một cách công khai, minh bạch rất kỹ càng theo quy trình, quy định của Đảng. Để chỉ đạo Đại hội Đảng sắp tới, ngày 14/6/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 35-CT/TW về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, trong đó yêu cầu đặt ra là: “công tác nhân sự phải bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, cấp ủy các cấp và đề cao vai trò, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và người đứng đầu theo quy định. Bảo đảm sự kế thừa, đổi mới và phát triển liên tục của đội ngũ cán bộ; đề cao, coi trọng chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý, tăng cường ở các vị trí, địa bàn lĩnh vực quan trọng, trọng yếu…”. Tuy nhiên, các thế lực thù địch lại tìm mọi cách tuyên truyền, phát tán quan điểm sai trái, thù địch trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng như cho in sách, báo ở nước ngoài; sản xuất băng, đĩa hình, in truyền đơn rồi tìm cách chuyển về trong nước; sử dụng các đài phát thanh, truyền hình ở nước ngoài như VOA, RFI, BBC để chống phá Việt Nam. Đặc biệt, các thế lực thù địch đã triệt để sử dụng các trang mạng xã hội, internet, blog cá nhân để phát tán các thông tin xấu độc, xuyên tạc cho rằng công tác nhân sự là “tạo lập phe cánh”“chạy chức chạy quyền”, tạo lập ra trang web giả mạo tuyên truyền về Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng thường “tạo cớ”, “xuyên tạc” tung ra các quan điểm sai trái, thù địch nhằm đả kích Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng, nói xấu, bôi nhọ lãnh đạo, phủ nhận thành quả cách mạng, phủ nhận giá trị tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh nhằm “hạ bệ thần tượng” của Đảng và toàn dân tộc, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.  

        Bên cạnh đó, tình hình tư tưởng trong Đảng và tâm trạng trong Nhân dân ngoài những mặt tích cực cơ bản, cũng có những biểu hiện đáng lo ngoại, nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tình hình trên cho thấy nhiệm vụ của toàn Đảng sắp tới là rất nặng nề; gần như đi đâu, đến chỗ nào, cũng thấy cán bộ, đảng viên và Nhân dân tỏ ra quan tâm theo dõi và có phần băn khoăn, lo lắng, đặt câu hỏi: Đảng ta sắp tới dự định lựa chọn, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo (Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhất là cán bộ chủ chốt) thế nào để đủ sức gánh vác nhiệm vụ cách mạng to lớn mà lịch sử giao phó?

          Nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác, đề kháng trước các luận điệu xuyên tạc, chống phá của các phần tử xấu, cơ hội, thù địch trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là trước thềm đại hội, người viết xin nêu ra 5 giải pháp sau:   

          Một là, các cấp ủy đảng cần làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng viên, nhất là triển khai quán triệt đầy đủ, kịp thời các văn bản chỉ đạo của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; tổ chức thực hiện các chuyên đề học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phát huy ý chí tự lực, tự cường nhằm tiếp tục tăng cường công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở thật sự trong sạch, vững mạnh.

          Hai là, đẩy mạnh đấu tranh, vạch trần bản chất phản động, luận điệu vô căn cứ của các quan điểm sai trái, thù địch chống phá Đảng, Nhà nước ta; khẳng định vị trí, vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhận diện các dạng quan điểm sai trái, thù địch chống phá cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay để đưa ra các giải pháp đấu tranh phù hợp, trong đó cần tập trung nắm tình hình, phát hiện các trang web, blog, diễn đàn thường xuyên đăng tải những nội dung phản động, thù địch. Qua đó, trang bị kiến thức cần thiết để mỗi người có thể tự sàng lọc, tiếp nhận thông tin hữu ích, chính thống, đồng thời “miễn dịch” với thông tin sai trái, thù địch.
        Ba là, các cơ quan chức năng, đặc biệt là lực lượng Công an cần phát huy vai trò nòng cốt trong chủ động, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nắm và dự báo tình hình, không để bị động, bất ngờ. Xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng dân chủ, nhân quyền, đưa tin bịa đặt, sai sự thật nhằm kích động gây bất ổn xã hội theo đúng quy định của pháp luật

Bốn là, phát huy có hiệu quả vai trò của Ban Chỉ đạo 35 các cấp cũng như vai trò của cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái thù địch trong tình hình mới. Nâng cao vai trò của các cơ quan tuyên giáo, mặt trận, báo chí, thông tin truyền thông trong công tác đấu tranh chống các thông tin sai trái, thù địch, thông tin xấu, độc; tăng cường viết bài kịp thời, chính xác nhằm phản bác những nội dung bị đặt, xuyên tạc, nói xấu, tạo đồng thuận xã hội.

 

NVH42 - Đại đoàn kết toàn dân tộc - Cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam


 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết toàn dân tộc. Trong hệ thống tư tưởng của Người, đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung cốt lõi, làm nên dấu ấn quan trọng của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng thành công trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tư tưởng của Người về đại đoàn kết toàn dân tộc thể hiện rõ quan điểm, lập trường, thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, được cụ thể hóa thành những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp tập hợp, quy tụ và phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, tổ chức lực lượng cách mạng, đoàn kết quốc tế nhằm phát huy cao nhất sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người chỉ rõ, sức mạnh lớn nhất là ở Nhân dân, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, đoàn kết được Nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh to lớn nhất. Người khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Người căn dặn: Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”.


Kế thừa và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, kiên trì và nhất quán quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra chế độ xã hội mới, là chủ nhân của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.


Ngay sau đại thắng Mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, quan điểm đoàn kết toàn dân tộc đã được Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng, đưa lên nhiệm vụ hàng đầu. Cùng với việc thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, ngày 24/5/1976, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định thống nhất các đoàn thể nhân dân và các tổ chức Mặt trận dân tộc trong cả nước (Các tổ chức Mặt trận là: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam). Đại hội thống nhất các tổ chức Mặt trận cả nước được tổ chức trọng thể tại Thành phố Hồ Chí Minh, từ ngày 31/1 đến ngày 4/2/1977, quyết định lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đánh dấu bước phát triển lớn mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trên phạm vi cả nước, mở ra một thời kỳ hoạt động mới của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, góp phần tích cực vào công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của dân tộc.


Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Muốn đưa vào sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, điều kiện quyết định trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, xây dựng chế độ làm chủ tập thể là xây dựng một xã hội trong đó người làm chủ là nhân dân lao động, có tổ chức mà nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. 


Quan điểm này đã được Đại hội V của Đảng khẳng định: Thành công rực rỡ của Đảng và nhân dân ta đã nhanh chóng thống nhất đất nước về mặt nhà nước, triển khai thực hiện nhiều chính sách thúc đẩy quá trình thống nhất về mọi mặt, tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là Nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình chủ yếu bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo cuả Đảng. Tăng cường Nhà nước là vấn đề cấp bách để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.


Tại Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện, có nhiều quan điểm, chủ trương đổi mới đề cập trực tiếp đến vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc như: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc” xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”.

Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước, trong đó nhấn mạnh hai bài học kinh nghiệm về đoàn kết dân tộc:  Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân…; Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.


Đến Đại hội VIII, Văn kiện Đại hội một lần nữa khẳng định: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”.

Đại hội IX nhấn mạnh: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.


Đại hội X chỉ rõ, nhiệm vụ phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đưa vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một trong bốn thành tố của chủ đề Đại hội; coi đó là “nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.


Tiếp tục khẳng định quan điểm của các nhiệm kỳ đại hội trước, Đại hội XI chỉ rõ: Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân...”.


Đại hội XII nhấn mạnh yêu cầu trong giai đoạn cách mạng hiện nay là phải “tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.


Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ sung một số nội dung, phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của Nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc; sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.


Đảng xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là: “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu đó cũng chính là đích đến quy tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự đồng nhất giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với mục tiêu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cho thấy sự hòa quyện giữa Ý Đảng - Lòng Dân; giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với nguyện vọng của toàn thể nhân dân, xuất phát từ nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân.


NVH42 - Phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

 

            Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, mô hình phát triển tổng quát của nền kinh tế Việt Nam, đang từng bước tạo tiền đề bền vững cho sự phồn vinh, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động vẫn tìm mọi cách để lan truyền các quan điểm sai trái, xuyên tạc về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta dưới nhiều cấp độ khác nhau. Do vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là kiên quyết đấu tranh, phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái này.

          Hiện nay, các luận điệu sai trái, xuyên tạc về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang được các thế lực thù địch, phản động tích cực gieo rắc, truyền bá, len lỏi vào trong các bộ phận, giai tầng xã hội cũng như nhân dân dưới nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, lúc công khai, khi ngấm ngầm, quyết liệt. Các luận điệu sai trái, thù địch có nhiều, nhưng có thể khái quát vào ba nhóm vấn đề chủ yếu sau đây:

          Một là, nhóm quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận tính hiện thực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Các thế lực thù địch ráo riết lan truyền luận điệu rằng, sẽ không thể có được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều lý lẽ xuyên tạc được các thế lực thù địch sử dụng để biện hộ cho cách lập luận của họ. Chúng xuyên tạc rằng, chủ nghĩa xã hội còn chưa rõ là thế nào, thì việc định hướng xã hội chủ nghĩa là không rõ ràng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng tù mù hơn(?!); rằng, Việt Nam chưa có kinh tế thị trường đúng nghĩa trong khi lại định hướng đi tới một chế độ xã hội chưa rõ ràng nên đi từ cái “chưa có gì” đến cái “chưa biết gì” là không thể. Không dừng lại ở đó, các thế lực thù địch còn tiếp tục xuyên tạc rằng, chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX rồi, làm gì còn chủ nghĩa xã hội mà định hướng; nào là hệ tư tưởng chủ nghĩa xã hội đã đi vào dĩ vãng, cáo chung, làm sao cứ bám quá khứ để định hướng đi đến tương lai (?!)... Nhiều quan điểm sai trái, thù địch kiểu như trên đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ, được cài cắm, len lỏi vào các diễn đàn trên mạng xã hội, các diễn đàn “hiến kế”, các diễn đàn “yêu nước”, vì “dân oan”... Đây là cách thức rất tinh vi, xảo quyệt mà các thế lực thù địch, phản động sử dụng hòng xuyên tạc, phủ nhận định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

          Hai là, nhóm quan điểm sai trái, xuyên tạc rằng, kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là tự mâu thuẫn nhau, không thể tương dung trong nền kinh tế thị trường đúng nghĩa.

          Để biện hộ cho quan điểm sai trái, tinh vi này, các thế lực thù địch, phản động tìm mọi luận cứ gán ghép xuyên tạc, hòng khiến người dân mơ hồ về định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Theo chúng, kinh tế thị trường là tự do, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa là chuyên chế; kinh tế thị trường là đa nguyên, trong khi chủ nghĩa xã hội là nhất nguyên; kinh tế thị trường là dân chủ, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa là độc đoán; kinh tế thị trường là sở hữu tư nhân, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa là sở hữu toàn dân; kinh tế thị trường là cạnh tranh bình đẳng, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa lại xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước... Do đó, tự bản thân kinh tế thị trường đã mâu thuẫn với định hướng xã hội chủ nghĩa, tự nội hàm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã mâu thuẫn nhau, nên sẽ không thể cùng tồn tại trong một mô hình kinh tế thị trường(?!).

          Ba là, nhóm quan điểm xuyên tạc rằng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là không có cơ sở lý thuyết khoa học, có chăng chỉ là sự gán ghép khiên cưỡng lý thuyết kinh tế thị trường với lý luận Mác - Lê-nin.

          Đưa ra quan điểm sai trái, lập luận phủ định, bác bỏ chưa đủ, các thế lực thù địch, phản động còn viện dẫn đến các phương thức xuyên tạc, vòng vo, lập lờ để hòng đánh lạc hướng thành viên trong xã hội. Chúng xuyên tạc rằng, chỉ có sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân mới là động lực của kinh tế thị trường; đồng thời, viện dẫn các quan điểm lý thuyết của các nhà kinh tế học phương Tây rằng, muốn có kinh tế thị trường thì tư nhân phải là chủ đạo. Theo đó, các quan điểm sai trái bám vào luận điệu cho rằng, cơ sở lý luận của sự phát triển kinh tế thị trường phải dựa trên sở hữu tư nhân; trong khi đó, chủ nghĩa Mác - Lê-nin lại chủ trương công hữu là là sự gán ghép khiên cưỡng vào nền kinh tế(?!). Tinh vi hơn, các quan điểm xuyên tạc định hướng xã hội chủ nghĩa còn thường xuyên nhấn mạnh rằng, kinh tế thị trường phải dựa trên nền tảng xã hội dân sự, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa lại dựa trên hệ thống chính trị độc đảng; kinh tế thị trường phải dựa trên các lý thuyết kinh tế tự do, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa lại dựa trên chủ nghĩa Mác - Lê-nin ngoại lai(?!). Không dừng lại ở đó, các quan điểm sai trái, thù địch còn viện dẫn các biểu hiện đơn lẻ để quy kết cho bản chất của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Chúng quy chụp rằng, vì sự khiên cưỡng này nên hàng loạt vụ tham nhũng lớn xảy ra ở Việt Nam là do nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không có cơ sở lý luận vững chắc... Có thể thấy, rất nhiều lập luận sai trái, xuyên tạc như vậy đang được đẩy mạnh truyền bá trong nhiều chương trình của hệ thống truyền thông của các thế lực thù địch, phản động.

          Ba nhóm lập luận nêu trên là điển hình trong rất nhiều quan điểm xuyên tạc, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta mà các thế lực thù địch, phản động ráo riết truyền bá dưới các màu sắc và cách thức tinh vi, xảo quyệt khác nhau. Âm mưu nguy hiểm của chúng là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên con đường phát triển của đất nước ta. Các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc thực chất là truyền bá đắc lực cho các thế lực mưu đồ giành quyền lực chính trị. Các thế lực này đang khát khao tìm cách len lỏi vào đời sống xã hội; từ đó, từng bước gây chia rẽ, mâu thuẫn, mơ hồ trong nội bộ cán bộ, đảng viên và nhân dân, tiến tới gây ảnh hưởng chính trị, làm rối loạn sự ổn định ở Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động nhận thức được rằng, nền tảng tư tưởng, lý luận của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta chỉ có thể được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; do đó, tìm mọi cách xuyên tạc về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đồng nghĩa với việc gián tiếp bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, khi xuyên tạc, làm méo mó nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động muốn xuyên tạc, phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là thành tựu của gần 40 năm đổi mới.

          Ý đồ sâu xa của các quan điểm sai trái, xuyên tạc, thù địch nêu trên là không thừa nhận con đường phát triển đúng đắn, phù hợp của Việt Nam; cố tình bôi nhọ, tìm mọi cách chống phá, trên mọi mặt trận, bằng mọi thủ đoạn hòng xóa bỏ con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động đang ra sức xuyên tạc, chống phá, hòng làm chệch hướng con đường phát triển của Việt Nam dưới nhiều màu sắc khác nhau. Chúng vận dụng, tận dụng nhiều hình thức, nhiều kênh, nhiều mặt trận thông tin để thực hiện âm mưu “mưa dầm, thấm lâu”, gây mơ hồ trong các giai tầng xã hội, hòng làm dao động tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; gây hoài nghi, chia rẽ nội bộ, làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân mất niềm tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng, hòng từng bước làm tan rã định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam.

          Về mặt lý luận, lập luận về sự không tương dung, sự mâu thuẫn, không có cơ sở lý thuyết vững chắc... của các quan điểm sai trái nêu trên đều không hề thuyết phục, chẳng qua chỉ là lập luận xuyên tạc, sai trái hòng phân tán, đánh lạc hướng dư luận. Một mặt, lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại. Ở đâu có sự phân công lao động và có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa con người với con người, thì ở đó có sự thúc đẩy dẫn tới xuất hiện của quan hệ hàng hóa, ở đó có quan hệ thị trường. Sự phát triển cứ như vậy diễn ra một cách khách quan vượt ra ngoài mọi ý chí chủ quan của con người. Về bản chất, kinh tế thị trường là giá trị phổ quát, không phải là giá trị riêng có của chủ nghĩa tư bản. Do đó, việc đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn sai lầm; lấy sự hiểu biết không thấu đáo để lớn tiếng cho rằng, chỉ có trên nền tảng tư bản chủ nghĩa, chỉ có kinh tế tư nhân mới có kinh tế thị trường là quan điểm ấu trĩ!

          Mặt khác, đến lượt nó, dù phát triển ở đâu, trong phạm vi quốc gia nào, ngoài những đặc trưng chung, những thành tố không thể thiếu là các yếu tố thị trường và các loại thị trường, thì kinh tế thị trường đều chịu sự quy định và phản ánh trình độ phát triển, điều kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội, chính trị, thể chế ở quốc gia đó. Không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung, phi lịch sử. Thực tế cho thấy, mô hình kinh tế thị trường kiểu Mỹ khác với kinh tế thị trường kiểu Đức, kinh tế thị trường kiểu Pháp khác với kinh tế thị trường kiểu Nhật Bản, kinh tế thị trường kiểu Anh khác với kinh tế thị trường kiểu Thụy Điển... Sở dĩ như vậy là vì, ngoài nền tảng chung là các yếu tố thị trường, các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay đều có vai trò của nhà nước, không có nền kinh tế thị trường nào chỉ nguyên nghĩa, tồn tại duy nhất vai trò của thị trường. Bởi lẽ, bản thân cơ chế thị trường cũng có những “khuyết tật” mà không thể tự khắc phục được. Vai trò của nhà nước trong việc khắc phục khuyết tật của thị trường là tất yếu khách quan. Khi đã có sự tham gia của nhà nước một cách khách quan, tất yếu có đặc trưng khác nhau trong các nền kinh tế thị trường đó ngoài những đặc điểm chung. Không có một nền kinh tế thị trường tự do vô chính phủ, lửng lơ. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng không nằm ngoài tính phổ biến đó. Vì vậy, các quan điểm sai trái, xuyên tạc, cố tình lập luận, dùng một tưởng tượng về nền kinh tế thị trường chung chung, trừu tượng, phi lịch sử để quy cho một mô hình kinh tế thị trường cụ thể, hiện hữu là phi lịch sử và phản khoa học.

          Càng không đúng hơn khi xuyên tạc rằng, kinh tế thị trường là đa nguyên, định hướng xã hội chủ nghĩa là nhất nguyên; kinh tế thị trường là tự do, định hướng xã hội chủ nghĩa là chuyên chế, độc đoán... Đây là những cách lập luận mang tính thù địch, cố tình không phân biệt giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, không phân biệt giữa chế độ xã hội với thể chế kinh tế thị trường, dùng biểu hiện bề ngoài và một vài khía cạnh của kinh tế thị trường để đánh đồng cho toàn bộ cấu trúc tổng thể của một mô hình kinh tế thị trường, cũng như không hiểu về bản chất tốt đẹp của xã hội xã hội chủ nghĩa. Về mặt lý luận, không ở đâu có cái gọi là “kinh tế thị trường nhất nguyên”, càng không có “kinh tế thị trường tự do trừu tượng”, cũng không có “kinh tế thị trường nào là độc đoán, chuyên chế”. Sự cố tình lập lờ, tráo lộn các phạm trù kinh tế với các phạm trù chính trị là lập luận sai trái, âm mưu nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động.

          Hơn nữa, việc sử dụng một số biểu hiện có tính chất hạn chế nhất thời, để từ đó thổi phồng như là bản chất của nền kinh tế thị trường càng hoàn toàn không phải là một cách lập luận thuyết phục, chẳng hạn việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo, là dung dưỡng cho tham nhũng, cho thất thoát lại một lần nữa cho thấy sự không trung thực, ý đồ xấu trong lập luận của các quan điểm sai trái nêu trên. Thực tế là, những biểu hiện nhất thời, những khiếm khuyết xảy ra không phải là bản chất xuyên suốt của một nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Như thế, xét về bản chất, thực hiện đầy đủ những giá trị đó chính là giá trị chung mà mỗi người Việt Nam chân chính đều mong muốn. Đó cũng là thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn phát triển của Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chủ nghĩa vì tự do, chủ nghĩa hướng đến khát vọng tự do của con người, mưu cầu sự giải phóng cho nhân loại; song, các thế lực thù địch, phản động lại xuyên tạc việc phát triển kinh tế dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tham nhũng, thất thoát, lãng phí không xuất phát từ bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; do đó, cố tình dùng hiện tượng đơn lẻ để quy chụp cho bản chất, dùng biểu hiện nhất thời, quy cho toàn bộ quá trình là cách lập luận hoàn toàn thiếu xác đáng. Tuy nhiên, việc cố tình lập lờ, đánh lận con đen dễ gây ngộ nhận, nhầm lẫn, nên các thế lực thù địch không ngần ngại sử dụng hòng xuyên tạc, phủ nhận mọi thành tựu mà đất nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng.

          Chưa cần chỉ ra các cách thức chống phá, luận điệu sai trái, quy chụp vô nguyên tắc, gán ghép bừa bãi hiện tượng với bản chất, tính ngụy biện, lập lờ của các quan điểm nêu trên, bản thân những thành quả của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là minh chứng, luận cứ khách quan, xác thực nhất nhằm phản bác không khoan nhượng các quan điểm sai trái, thù địch về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.

Thứ nhất, việc chuyển thành công từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là luận cứ đanh thép nhất phản bác mọi luận điệu sai trái, xuyên tạc về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ một nền kinh tế đói nghèo, khủng hoảng, chịu thiệt hại nặng nề bởi chiến tranh do chủ nghĩa thực dân, đế quốc và tay sai bù nhìn gây ra, hiện nay trong nền kinh tế ở Việt Nam đã hiện diện đầy đủ yếu tố thị trường, các loại thị trường với biểu hiện phong phú, hiện thực sinh động và sự tham gia đa dạng các loại hình, các quan hệ kinh tế; số lượng hàng hóa, dịch vụ phong phú, đa dạng, đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của mọi người, từ đô thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, từ nơi phát triển đến vùng sâu, vùng xa; hàng hóa, dịch vụ lan tỏa vào mọi khu vực địa lý, mọi loại địa hình. Thực tế này là gì nếu không phải là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và do đó, định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là đúng đắn, phù hợp. Đó là một thực tế về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mà không một thế lực nào có thể bác bỏ được.

Thứ hai, chính những thành tựu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã đem lại những kết quả vượt bậc về tăng trưởng kinh tế đi đôi thực hiện tiến bộ xã hội, giảm nghèo bền vững với tốc độ nhanh, hiệu quả, đang được các phương tiện thông tin đại chúng trên khắp thế giới ghi nhận và công bố khách quan, một lần nữa minh chứng cho tính hiện thực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Những kết quả đó đã được thế giới công nhận. Đặc biệt, khi cả thế giới phải đương đầu với đại dịch COVID-19, thì tính ưu việt của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam lại càng được thể hiện rõ ràng, hiệu quả.

Bên cạnh những thành tựu về giảm nghèo, nhiều thành tựu khác về chỉ số phát triển con người, về mạng lưới an sinh xã hội, về tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người, về sự phát triển của giáo dục, y tế, các dịch vụ cơ bản khác trên tất cả lĩnh vực được thể hiện đậm nét trong các bảng thống kê của các tổ chức trên thế giới. Điều này cho thấy, những kết quả, thành tựu về chính trị, kinh tế, xã hội ở nước ta được thế giới tiến bộ thừa nhận và trở thành luận cứ sắc bén bóc trần âm mưu đen tối, thái độ hằn học của các thế lực thù địch, phản động.

Thứ ba, nền kinh tế thị trường Việt Nam ngày càng gắn bó với thị trường thế giới, khi hàng hóa của Việt Nam tham gia vào thị trường của hơn 200 quốc gia, vùng lãnh thổ trên khắp hành tinh; và theo chiều ngược lại, chừng đó những dòng hàng hóa, dịch vụ của các thị trường ấy tham gia vào nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đó là gì, nếu không phải là do sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam? Những thành tựu có được chính là nhờ việc thực hiện kiên định định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta, nhân dân ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Chính chế độ xã hội chủ nghĩa đã đem lại sự ổn định, phồn vinh của đất nước ta, sự tin tưởng của cộng đồng doanh nghiệp và các chính đảng, nhà nước, tổ chức quốc tế ở khắp nơi trên thế giới đối với Việt Nam. Thực tế đó đã chứng minh tính đúng đắn của việc lựa chọn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đồng thời, thực tế còn cho thấy, khi đất nước ta càng đạt được nhiều thành tựu, thì các thế lực thù địch, phản động càng điên cuồng chống phá, phủ nhận, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Thế nhưng, chính những thành tựu mà đất nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng là luận cứ đanh thép, thuyết phục nhất phản bác mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động; đồng thời, là cơ sở, động lực để thúc đẩy đất nước ta đạt được những thành tựu mới cao hơn, vững chắc hơn trong giai đoạn phát triển tiếp theo./.

 

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...