Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận vấn đề nhân phẩm, nhân quyền từ bản tính nhân bản
của chính con người gắn với các giá trị văn hóa tiến bộ và cả những giá trị
nhân văn có tính “vượt trước” của dân tộc và nhân loại. Trong giai đoạn hiện
nay, việc tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân phẩm, nhân
quyền có ý nghĩa rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Về nhân phẩm: Trong lịch sử nhân loại và tư tưởng
của các nhà triết học có nhiều quan điểm về nhân phẩm nhưng tiếp cận nhân phẩm
từ bản tính nhân văn của chính con người là nét đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Người cho rằng, vấn đề thiện ác, nhân phẩm ở con người truyền thống cơ bản
thể hiện ở nhân nghĩa. Người đổi mới cách giải thích: “Nhân là thật thà yêu
thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào... sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi
người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ...
không
ham giàu sang,
không
e cực khổ, không
sợ
oai quyền”. “Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy... không
có lợi ích riêng phải lo toan...”. Nhân phẩm con người cơ bản thể hiện ở đạo đức.
Đạo đức là nền tảng, là cái gốc của nhân phẩm, của nhân quyền (hay quyền con
người). Đạo đức, nhân phẩm, nhân quyền là những cách thể hiện khác nhau của bản
tính nhân bản mỗi khi con người hiện diện trong cộng đồng và trong xã hội nói
chung dưới những góc độ và vai trò khác nhau.
Vấn
đề thiện ác, nhân nghĩa hay vấn đề đạo đức, nhân phẩm truyền thống được Chủ tịch
Hồ Chí Minh luận giải sâu sắc hơn qua các nội hàm: trung, hiếu, cần, kiệm,
liêm, chính trong hoàn cảnh mới. Người nhấn mạnh: “Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền
tảng của đời sống mới, nền tảng thi đua ái quốc”. Con người sẽ vững vàng trước
mọi thử thách, cám dỗ nếu hội đủ những phẩm chất nhân văn nêu trên trong nhân
phẩm của mình.
Về
nhân quyền: Nhân quyền là sự biểu hiện của nhân phẩm bằng pháp luật trong xã hội.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và
phát triển tư tưởng quyền “tự nhiên” của mỗi cá nhân trong các bản Tuyên ngôn độc
lập của Mỹ (năm 1776), bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng
Pháp (năm 1789) và tư tưởng về quyền dân tộc tự quyết của V.I.Lênin thành quyền
cá nhân con người gắn với quyền độc lập - tự do - hạnh phúc của tất cả các dân
tộc. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở rộng quyền con người gồm cả quyền dân
tộc tự quyết, từ đó Người tạo cơ sở về dân chủ, dân quyền cho việc giải quyết
đúng đắn mối quan hệ qua lại giữa việc tôn trọng, bảo vệ, thực hiện quyền bình
đẳng, tương trợ, đoàn kết giữa mọi người và giữa các cộng đồng với việc bảo đảm
quyền dân tộc - quốc gia Việt Nam và ngược lại.
Trong
thực tế cả đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mục đích là
phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của Nhân dân, bất kỳ bao giờ, bất
kỳ ở đâu, cũng chỉ theo đuổi một mục đích làm cho ích quốc lợi dân. Người không
quên quyền lợi của bất kỳ một cộng đồng xã hội nào, từ nhi đồng, thiếu niên, đến
thanh niên, phụ nữ, phụ lão, công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức, đồng bào
dân tộc thiểu số và tôn giáo, người khuyết tật... Người xác định dân là chủ thì
mới làm chủ và có khả năng gắn bó quyền lợi của bản thân với quyền lợi của cộng
đồng và quyền lợi của đất nước (hay ngược lại); bảo đảm quyền lợi của Nhân dân
Việt Nam thì đồng thời phải tôn trọng quyền lợi của các dân tộc khác. Người yêu
cầu cán bộ, đảng viên phải là “công bộc”, là tấm gương phục vụ quyền lợi của
Nhân dân.
Tiếp
tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân phẩm, nhân quyền để xây dựng đất nước
trong giai đoạn hiện nay
Một
là, vận dụng tư tưởng về mối quan hệ giữa nhân phẩm, nhân quyền.
Tư
tưởng nhân quyền gắn bó mật thiết với nhân phẩm nhưng chúng không phải là “đặc
quyền tự nhiên” được mặc nhiên thừa nhận từ bản tính nhân bản cố hữu của mỗi
người mà luôn bị quy định bởi điều kiện xã hội. Do đó, cần vận dụng nhân quyền
vừa mang tính phổ quát các giá trị nền tảng của nhân phẩm, vừa mang tính đặc
thù của điều kiện xã hội tạo nên các giá trị này. Nhân quyền không giới hạn chỉ
ở khía cạnh thực thể tự nhiên - xã hội, mà mang bản chất “tổng hòa các quan hệ
xã hội”, trước tiên là quan hệ pháp lý, của nhân phẩm và được biểu hiện ở nhân
cách văn hóa.
Hai
là, vận dụng tư tưởng về mối quan hệ qua lại giữa bảo đảm quyền dân tộc - quốc
gia và tôn trọng, bảo vệ, thực hiện quyền lợi của các cá nhân và các cộng đồng
trong nước.
Đây
là một nguyên nhân cơ bản giúp Việt Nam vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội,
vững vàng chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vào cuối
những năm 1980 và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ giữa những năm
1990. Đến nay, Việt Nam đã giải quyết khá tốt việc bảo đảm quyền phát triển của
đất nước cùng với việc tôn trọng, bảo vệ, thực hiện quyền của các dân tộc thiếu
số, tôn giáo và các cộng đồng khác trong nước, nhưng lại chưa phát huy được giá
trị của mối quan hệ biện chứng này. Vì vậy, cần nhận thức rõ hơn việc thực
hành, giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng này trong thực tế đổi mới đất nước;
trong đó việc tôn trọng, bảo vệ, thực hiện quyền lợi của người dân và các cộng
đồng lớn nhỏ chính là cơ sở bảo đảm quyền độc lập - tự do - hạnh phúc của đất
nước.
Ba
là, khắc phục những hạn chế trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhân phẩm, nhân quyền.
Trong
thực tế, không ít trường hợp vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhân quyền chưa phân biệt, có khi nhầm lẫn chưa chú ý làm rõ, vận dụng và
phát triển sáng tạo mối quan hệ giữa bảo đảm quyền cá nhân và quyền tập thể; giữa
vấn đề đạo đức, văn hóa và pháp lý cũng như mối quan hệ giữa xây dựng đạo đức mới,
văn hóa mới với bảo đảm quyền con người; chưa coi trọng đúng mức việc tôn trọng,
bảo vệ, thực hiện thể chế về bảo đảm quyền của từng giai tầng xã hội: công
nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân... phù hợp với tình hình phân hóa giàu
nghèo, phân hóa xã hội theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc
biệt, các thế lực thù địch, phản động đang xuyên tạc, vu khống về vấn đề nhân
quyền của Việt Nam, do đó các cơ quan chức năng cần phải có những biện pháp hiệu
quả nhằm ngăn chặn, xử lý kịp thời./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét