Tự do nói chung, tự do ngôn
luận nói riêng đều cần được hiểu là tự do trong khuôn khổ pháp luật. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948, Công ước nhân
quyền châu Âu năm 1953, Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 đều
khẳng định quyền tự do ngôn luận, nhưng cũng nhấn mạnh tự do ngôn luận là tự do
trong những giới hạn của đạo đức và pháp luật, chủ yếu là nhằm bảo
vệ nhân phẩm, danh dự (đời tư) của người khác, bảo vệ bí mật kinh doanh, chống
kỳ thị, phân biệt đối xử, chống kích động bạo lực, chiến tranh, chống chỉ
trích, phê phán chính quyền, đặc biệt nếu đó là những kêu gọi bạo loạn, đe dọa
đến trật tự công cộng và an ninh quốc gia. Bởi
vậy, mỗi quốc gia có thể cân nhắc tình hình thực tế của mình để cụ thể hóa
việc thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân.
Rõ ràng, trong bất cứ chế
độ chính trị nào cũng không thể có tự do ngôn luận tuyệt đối, các quốc gia đều
xử lý nghiêm khắc hành vi lợi dụng tự do ngôn luận; đề cao tự do ngôn luận phải
vì lợi ích chung, không phải là sự tuyệt đối hóa tự do cá nhân, không thể lợi
dụng tự do ngôn luận để viết, nói, xuyên tạc với ý đồ xấu, bất chấp luân lý và
luật pháp.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà
nước luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, trong đó có quyền tự do
ngôn luận của công dân. Tự do ngôn luận được xem là quyền hiến định ngay trong
bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946: “Công dân
Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp,
tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài” (Điều 10).
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tiếp tục khẳng định:
“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp,
lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều
25). Bên cạnh đó, chúng ta còn có Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông
tin năm 2016. Khung pháp lý của nước ta về quyền tự do ngôn luận cơ bản đầy đủ,
đồng bộ, tương thích với luật pháp quốc tế về quyền con người. Cũng giống như
các quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam có những quy định để hạn chế và ngăn
chặn những hành vi lợi dụng tự do ngôn luận, xâm hại tới lợi ích quốc gia,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Nhận thức rõ tầm quan
trọng, lợi ích cũng như những hiểm họa từ mặt trái của internet và mạng xã hội, Đảng và Nhà nước
ta đã có những chủ trương, chính sách phù hợp nhằm phát triển internet và mạng xã hội; đồng thời bảo vệ
an ninh mạng và phòng, chống lợi dụng internet,
mạng xã hội để xuyên tạc, chống phá chính quyền, xâm hại quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Trong đó phải kể đến Chỉ
thị số 28-CT/TW, ngày 16-9-2013, của Ban Bí thư khóa XI, về “Tăng cường
công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng”; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP, ngày
15/7/2013, của Chính phủ, về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ
internet và thông tin trên mạng”; Chỉ
thị số 15/CT-TTg, ngày 17/6/2014, của Thủ tướng Chính phủ, về “Tăng
cường công tác bảo đảm an ninh và an toàn thông tin mạng trong tình hình mới”. Văn
kiện Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Chú trọng công tác quản lý các loại hình
thông tin trên internet để định
hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên”.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện Nghị
quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/01/2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch trong tình hình mới”, Ban Tuyên giáo Trung ương đã tăng cường chỉ
đạo công tác đấu tranh, phản bác các thông tin và luận điệu sai trái, âm mưu,
hoạt động lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước. Bộ Quốc
phòng, Bộ Công an chủ động triển khai công tác phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn,
xử lý nghiêm các đối tượng lợi dụng internet, mạng xã hội để vi phạm pháp
luật. Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng (Bộ Quốc phòng) được thành lập
theo Quyết định số 1198/QĐ-TTg, ngày 15/8/2017, của Thủ tướng Chính phủ, đóng
vai trò nòng cốt trong việc bảo đảm an ninh, an toàn không gian mạng quốc gia,
đấu tranh phòng, chống tội phạm công nghệ cao và “diễn biến hòa bình” trên
không gian mạng. Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và
Luật An ninh mạng năm 2018, đều quy định rõ những hành vi như đăng tải, phát
tán thông tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền;
bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu
cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống,
xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân... đều bị
pháp luật xử lý.
Các thế lực phản động, thù
địch trong và ngoài nước đã và đang lợi dụng tự do ngôn luận để xuyên tạc,
chống phá Đảng và Nhà nước ta, bôi nhọ, nói xấu chính quyền, gây kích động,
hoang mang trong nhân dân, đe dọa an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
Chẳng hạn, liên quan đến việc thông qua Luật
An ninh mạng, nhiều trang điện tử và các phần tử phản động đã đưa tin bóp méo,
xuyên tạc, cho rằng luật này “đặc biệt xâm phạm không gian riêng tư”, “vi
phạm tự do ngôn luận, báo chí, internet”. Một số người không đủ thông tin,
thiếu hiểu biết nên dễ dàng tin theo và có những phát ngôn chống đối, cản trở
việc thi hành Luật. Vụ việc Đồng Tâm ngày 09/01/2020 gây chấn động và
chia rẽ trong cộng đồng bởi quá nhiều luồng tin trái chiều trên mạng xã hội.
Các thế lực thù địch cũng nhân cơ hội này mà tuyên truyền nhằm chống phá chế
độ…
Khi chúng ta ngăn chặn
những thông tin xuyên tạc, sai trái trên, các thế lực thù địch rêu rao rằng,
đây là “một hình thức kiểm duyệt thông tin”, “vi
phạm quyền tự do ngôn luận”. Sự thật là, việc ngăn chặn trên là cần thiết, phù
hợp với quy định của pháp luật, các quốc gia trên thế giới đều phải thực hiện.
Sau khi Bộ Thông tin và Truyền thông đẩy mạnh các hoạt động trao
đổi, làm việc với đại diện của Facebook, Google đề nghị ngăn chặn, xử lý, gỡ bỏ
thông tin vi phạm pháp luật Việt Nam trên mạng xã hội thì hàng nghìn video,
trong đó có những video có nội dung kích động chống phá Đảng, Nhà nước đã được
gỡ bỏ khỏi Youtube; hàng nghìn đường link có nội dung vi phạm pháp luật, hàng
trăm tài khoản giả mạo, tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước cũng đã được
Facebook ngăn chặn…
Để đấu
tranh phòng, chống lợi dụng quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng, cần
phải triển khai đồng bộ các giải pháp:
Thứ nhất, giáo
dục, tuyên truyền nhằm nâng cao trách nhiệm của người sử dụng mạng và tinh thần
cảnh giác trước tin đồn. Nâng cao nhận thức và năng lực tự sàng lọc thông tin
của người dân và cộng đồng, hình thành thói quen hành xử tích cực trên môi
trường mạng. Đây là giải pháp có ý nghĩa then chốt và lâu dài để mỗi người
dân trở thành bộ lọc thông tin hiệu quả cho chính mình và cộng đồng.
Thứ hai, thường
xuyên theo dõi, khảo sát, đánh giá, kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách giúp quản lý hiệu quả, vừa phù hợp với các
quy tắc điều chỉnh hành vi văn hóa trong sinh hoạt xã hội và cộng đồng, vừa
theo kịp sự phát triển của mạng xã hội.
Thứ ba, cần
tăng cường các biện pháp kỹ thuật. Cụ thể là, đầu tư thỏa đáng cho các cơ quan
có trách nhiệm bảo đảm an ninh, an toàn không gian mạng quốc gia. Tuyển dụng,
đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi về công nghệ thông tin, có khả năng thực hiện
hiệu quả các biện pháp nghiệp vụ kỹ thuật. Đồng thời, khuyến khích phát triển
mạng xã hội của Việt Nam; phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội lớn
từ nước ngoài, như Facebook, Google, Twitter, Youtube để kịp thời ngăn chặn, xử
lý, loại trừ những nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn xã hội, an ninh quốc gia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét