Tiến lên chủ nghĩa xã hội là con đường
mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, đó là một lựa chọn tất yếu thể hiện
ý chi, nguyện vọng của toàn dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ, nhân
dân ta đã giành được nhiều thắng lợi vẻ vang, đất nước đã đạt được nhiều thành
tựu nổi bật. Tuy nhiên, để hòng thực hiện âm mưu phá hoại chế độ, thực hiện mưu
đồ bá chủ thế giới, các thế lực thù địch không bao giờ ngừng thực hiện các âm
mưu, thủ đoạn. Chúng sử dụng luận điệu sai trái, xuyên tạc làm lệch hướng dư luận,
gây kích động bạo loạn, gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội để
chúng dễ bề thực hiện các mưu đồ can thiệp của mình vào Việt Nam. Để nâng cao nhận
thức của người dân về tính tất yếu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và những
thành tựu mà đất nước ta đã đạt được trong thời gian qua, cùng tiến hành phân
tích trên một số phương diện sau.
Về cơ sở lý luận, bằng phương pháp luận
biện chứng, xuất phát từ cơ sở Triết học, Mác đã luận giải phát triển chủ nghĩa
xã hội khoa học và coi sự vận động xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên
chịu sự chi phối của những quy luật không những không phụ thuộc vào ý chí, ý thức
và ý định của con người, mà trái lại, còn quyết định ý chí, ý thức và ý định của
con người. Từ các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, ông đã làm nổi bật
riêng lĩnh vực kinh tế, bằng cách là trong các mối quan hệ xã hội ông đã làm nổi
bật những quan hệ sản xuất, coi đó là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết
định tất cả mọi quan hệ khác. Từ đó ông đã luận giải sự thay thế của các hình
thái kinh tế xã hội.
Đồng thời các ông đã chỉ ra những thiếu
sót, bản chất của chủ nghĩa tư bản. C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng
định: Chủ nghĩa tư bản, với tư cách là phương thức sản xuất được hình thành và
thay thế phương thức sản xuất phong kiến trong lịch sử, là chế độ kinh tế - xã
hội tiến bộ hơn nhiều so với các chế độ kinh tế - xã hội trước đó. Đặc biệt, nhờ
vận dụng hiệu quả quy luật của kinh tế thị trường, giai cấp tư sản trong quá
trình thống trị chưa đầy một thế kỷ “đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều
hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”. Mặc
dù chủ nghĩa tư bản có vai trò lớn trong việc nâng cao năng suất lao động, thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng, song vẫn là chế độ bất công bởi
những tiến bộ về kinh tế chủ yếu được sử dụng nhằm phục vụ cho lợi ích giai cấp
tư sản, do đó chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì các mâu thuẫn nội tại của nó
càng sâu sắc; xu thế xã hội hóa sản xuất không còn khả năng chịu đựng trong vỏ
bọc chật hẹp của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Mác, Angghen, Lênin cũng chỉ ra sự ưu
việt của chủ nghĩa xã hội. Về phương
diện chính trị, chủ nghĩa xã hội là một nền dân chủ phải “gấp triệu lần
hơn dân chủ tư sản”. Bản chất chính trị ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa là phải mở rộng dân chủ, lôi cuốn hàng triệu, hàng triệu quần chúng nhân
dân tham gia quản lý xã hội, quản lý đất nước. Nhà nước Xô-viết phải thể hiện
tính ưu việt ngay trong phương thức lôi cuốn nhân dân tham gia quản lý…
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, không
chỉ phải thực hiện công bằng, bình đẳng trong quan hệ giữa người và người mà
còn phải thực hiện công bằng bình đẳng xã hội giữa các tộc người trong quốc gia
đa dân tộc.
Về cơ sở thực tiễn, qua quá trình
nghiên cứu, khảo nghiệm các cuộc cách mạng trên thế giới và các phong trào ở
trong nước, Người đã tìm thấy con đường chân chính cho dân tộc là thực hiện
cách mạng vô sản, đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn các phong trào đấu tranh của
các thế hệ đi trước đều đi vào bế tắc bởi con đường, bởi phương pháp lựa chọn
hoặc là tiếp tục đi theo con đường phong kiến đã cũ kỹ lạc hậu, hoặc đi theo
con đường tư bản với bản chất cốt lõi lúc đó vẫn là cải lương, tất cả các phong
trào đó đều đi đến thất bại do sai lầm về đường lối, thiếu lực lượng lãnh đạo.
Còn đối với các cuộc cách mạng tư sản
trên thế giới, tiêu biểu như cách mạng tư sản Mỹ năm 1776, cách mạng tư sản
Pháp năm 1789, cả hai cuộc cách mạng đó đều là cuộc cách mạng “không đến nơi”.
Để vẫn còn chế độ người bóc lột người, giai cấp này áp bức bóc lột giai cấp
khác, trong thì tước lục công nông, ngoài thì áp bức các dân tộc thuộc địa. Bất bình đẳng trong chủ nghĩa tư bản bắt nguồn
từ sự bất bình đẳng trong chế độ sở hữu tư liệu sản xuất. Sự phân cực trong vấn
đề tài sản tự nó là biểu hiện của tình trạng bất bình đẳng xã hội ngày càng
tăng ở mỗi nước và trên phạm vi thế giới. Khoảng cách về thu nhập giữa các
nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển năm 1960 là 30 lần thì hiện
nay là 70 lần(8) và giá trị tài sản của các tỷ phú trên thế giới
đã tăng gấp đôi trong 10 năm qua. Theo đó, tài sản của 1% người giàu nhất cao
hơn 74 lần so với 50% người nghèo nhất.
Trong khi đó cách mạng tháng Mười Nga
thành công, đem tới tự do, bình đẳng, bác ái thật sự cho nhân dân. Mục đích của
giai cấp vô sản là thiết lập chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ sự phân chia xã hội thành
giai cấp, biến tất cả mọi thành viên xã hội thành người lao động, tiêu diệt cơ
sở của mọi tình trạng người bóc lột người. Chính vì vậy, lựa chọn độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một lựa chọn tất yếu, một lựa chọn theo ý nguyện
của toàn thể dân tộc Việt Nam. Đi lên chủ nghĩa xã hội chính là con đường tất yếu
mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, nên bất cứ luận điệu nào đi ngược lại
mục tiêu, con đường này là sai lầm về mặt bản chất, lộ rõ bộ mặt phản cách mạng,
đi ngược lại ý chí và nguyện vọng của dân tộc Việt Nam.
Thành tựu mà nước ta đạt được từ khi
lựa chọn, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Đại hội
XIII của Đảng đã khẳng định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30
năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực
hoá. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển
mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế
được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ
rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế
như ngày nay”.
Trước đổi mới, Việt Nam là một nước
nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cuối những năm 70, đầu những năm 80 của
thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra gay gắt, tỉ lệ lạm pháp có lúc
lên đến 774,7%, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu lương thực triền
miên, khoảng ¾ dân số sống ở mức nghèo khổ. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền
kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tăng trưởng tương
đối cao, trung bình khoảng gần 7% mỗi năm.
“Quy mô GDP không ngừng được mở rộng,
năm 2020 đạt 342,7 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong
ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt
Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu
lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh
lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng
hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch
vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên
280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước
ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020”.
Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù
chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở
năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Việt
Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ
trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người
cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện
đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Liên hợp quốc đã công
nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục
tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt
mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có
cùng trình độ phát triển.
Đất nước ta tiến hành đổi mới trong bối
cảnh thế giới có những biến động to lớn, diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó
lường; các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng, nhưng nền quốc
phòng, an ninh nước ta luôn vững vàng, không ngừng được củng cố và phát triển. Xây
dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại; một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại,
đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên
trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững môi trường
hoà bình, ổn định để phát triển đất nước… Tiềm lực quốc phòng và an ninh được
tăng cường; thế trận lòng dân được chú trọng; thế trận quốc phòng toàn dân và
thế trận an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm, được
củng cố vững chắc”.
Việt Nam đã chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin
cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Bảo đảm
cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản
của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có
lợi… Nước ta tham gia có hiệu quả vào các định chế khu vực và toàn cầu, nhất là
các hiệp định thương mại (FTA) thế hệ mới và đóng góp tích cực ở hầu hết các tổ
chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách, ghi
đậm dấu ấn về sự chủ động, tích cực trong vai trò Chủ tịch luân phiên lần thứ
hai của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 2020 và Ủy viên không thường
trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021. Việt Nam đã trở thành
tâm điểm chú ý của toàn cầu với vị trí, uy tín cao trong năm 2020. Việt Nam được
thế giới đánh giá là “ngôi sao sáng của châu Á”, được xếp vào tốp 16 nền kinh tế
mới nổi thành công nhất thế giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét