Thời
gian qua, việc đảm bảo quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí nói riêng ở nước ta đã đạt được những kết quả
hết sức quan trọng, được cộng đồng quốc tế công nhận. Tuy nhiên,
bất chấp những thành quả ấy, các thế lực thù địch, phản động lại cố tình xuyên tạc, vu khống Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí.
Các thế lực thù địch ra sức phê phán, xuyên tạc Việt Nam ngăn cản tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, là kẻ thù của tự do báo chí trên mạng. Các thế lực thù địch cho rằng: Nhà nước Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do biểu đạt, tự do báo chí, tự do internet, bao gồm bắt và truy tố tùy tiện những người chỉ trích chính quyền, kiểm duyệt, đóng các trang mạng, ra các luật về hành vi phi bảng mang tính chất hình sự; “chính quyền, dưới chế độ cai trị độc đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam, xiết chặt vòng kiềm tỏa các quyền tự do biểu đạt, tự do lập hội, nhóm họp ôn hòa, tự do đi lại và tự do tôn giáo”, hay “Chính phủ Việt Nam đã sử dụng lực lượng 47 với khoảng 10.000 chiến binh mạng nhằm chống lại cái mà Chính phủ Việt Nam gọi là lực lượng phản động trên mạng, tức những thông tin chỉ trích Chính phủ”,… Điển hình như vụ việc xảy ra vào năm 2018, trên trang mạng Dân luận và nhiều hãng thông tấn, báo chí phương Tây đã tán phát “Bản lên tiếng về quyền được nói và nghe sự thật”.
Việt Nam đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí
Tôn
trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.
Trong
những năm qua, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin. Điều này được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 và
được thể chế hóa trong các bộ luật liên quan như Luật Báo chí năm
2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Luật An ninh mạng năm 2018 và nhiều văn
bản pháp luật khác. Cụ thể: Điều 25, Hiến
pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền
này do pháp luật quy định”. Hay khoản 1, Điều 3, Luật Tiếp cận thông
tin năm 2016 cũng khẳng định: “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị
phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin”. Bên
cạnh đó, Luật Báo chí năm 2016 và Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 cũng quy định
rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực
hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí; bảo đảm mọi công dân
đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận
thông tin; bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời, minh bạch,
thuận lợi cho công dân.
Mọi quyền tự
do, trong đó có tự do ngôn luận, tự do báo chí đều phải có giới hạn nhất định.
Tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin được xem là nguyên tắc bản cho một
nền dân chủ, nhưng không vì thể mà quyên tự do báo chí, tự do ngôn luận hay tự
do thông tin không chế; các quyền này không được cộng đồng quốc tế thừa nhận là
quyền tuyệt đối. Điều 19 Công ước về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966 khẳng định: “Việc thực hiện quyền tự
do ngôn luận có thể phải chịu một số hạn chế nhất định và những hạn chế này cần
được quy định bởi pháp luật, nhằm: Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác;
Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã
hội”. Như vậy, quyền tự do ngôn luận không phải là tự do tuyệt đối.
Hay tại Khoản 2, Điều 29 Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 cũng đã nêu rõ:
“Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn
do luật pháp đặt ra nhằm bảo đảm những quyền tự do của người khác cũng được
thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng
và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn”.
Tự do
ngôn luận, tự do báo chí là những quyền cơ bản của con người cần được tôn trọng
và bảo đảm. Tuy nhiên, ở bất kỳ quốc gia nào, tự do ngôn luận, tự do báo chí
cũng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật nhằm tránh hiện tượng bị lợi dụng, gây
phương hại đến quyền, lợi ích của cá nhân khác, đến đạo đức xã hội, trật tự công
cộng và an ninh quốc gia. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, internet
và mạng xã hội đã trở thành công cụ thể hiện quyền tự do ngôn luận của
đông đảo người dân, điều này đặt ra nhiều vấn đề về xã hội và pháp lý, trong đó
có việc quản lý thông tin trên không gian mạng hiện nay. Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm chăm lo thực hiện tốt quyền tự do cơ
bản của con người, của công dân, trong đó có tự do ngôn luận, nhưng đi kèm với
đó phải là kỷ luật, kỷ cương, pháp luật. Tạo mọi điều kiện tốt nhất để công dân
thực hiện quyền tự do, trong đó, có tự do ngôn luận nhưng với những hành vi lợi
dụng tự do ngôn luận để làm những điều trái luật, làm phương hại danh dự, nhân
phẩm người khác; gây tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc… thì phải nghiêm
trị theo pháp luật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét