Một
trong những âm mưu, thủ đoạn chống phá dai dẳng của các thế lực thù địch đối
với cách mạng Việt Nam là xuyên tạc, phủ nhận những nỗ lực, thành quả của Việt
Nam trong việc bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận cho công dân.
Những luận điệu “nhai đi nhai
lại” rất xảo trá, thâm độc
Thời gian qua, các thế
lực thù địch và một số cơ quan báo chí truyền thông phương Tây, các phần tử
thiếu thiện chí, bất mãn chính trị đã lợi dụng bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô
Lâm tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV để xuyên tạc về vấn đề tự do báo chí, tự
do ngôn luận tại Việt Nam.
Những
luận điểm được “nhai đi nhai lại” nhiều lần là quy kết, vu khống Việt Nam không
có tự do báo chí, tự do ngôn luận thông qua cái gọi là “Bảng xếp hạng chỉ số tự
do báo chí thường niên”, xếp báo chí Việt Nam luôn ở vị trí áp chót bảng. Bên
cạnh đó, họ xuyên tạc Đảng, Nhà nước Việt Nam với tư duy “ không quản được thì
cấm” báo chí theo chế độ “đăng ký”, “bị kiểm duyệt”, “hà khắc”... Chúng cho
rằng: “Việt Nam cho loại bỏ tất cả các quy định cấm đoán quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí của người dân và tra tự do cho toàn bộ tù nhân chính trị đang là
nạn nhân của các điều luật hình sự bất công”
Có
thể khẳng định, thông tin sai trái, thù địch về vấn đề tự do báo chí như những
mũi kim tiêm tẩm độc xuyên vào nhận thức, thái độ, làm thay đổi thế giới quan,
nhân sinh quan của nhiều người. Những thông tin sai lệch, xuyên tạc có thể làm
chia rẽ, ly gián lòng người, làm phân tâm trong các giai tầng xã hội, phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc...Nguy hại hơn, các quan điểm sai trái, thù địch về
vấn đề tự do báo chí Việt Nam còn tạo ra cái nhìn sai lệch, thiếu thiện cảm của
cộng đồng quốc tế về Việt Nam; thậm chí có thể ảnh hưởng tiêu cực đến đánh giá
của các tổ chức quốc tế, các quốc gia về vấn đề nhân quyền và trình độ phát
triển xã hội Việt Nam.
Một Việt Nam với quyền tự do
báo chí rộng mở
Những
năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho báo chí
Việt Nam phát triển. Cùng với đó, sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước là
hiện thực sinh động cho báo chí Việt Nam phát triển lớn mạnh cả về quy mô, tổ
chức, lực lượng, phương tiện, công nghệ làm báo và sức ảnh hưởng, lan tỏa trong
xã hội.
Về phương diện chính
trị, pháp lý, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Báo chí vừa là tiếng nói của
Đảng, của Nhà nước, của các đoàn thể, vừa là diễn đàn của nhân dân”; Điều 25
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 hiến định: “Công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập
hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Tất nhiên, cũng như ở
mọi lĩnh vực, mọi quốc gia, tự do báo chí phải trong khuôn khổ chứ không phải
là thứ tự do vô giới hạn, vô chính phủ, đứng ngoài pháp luật. Luật Báo chí 2016
quy định: “Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận
trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức và công dân” (Điều 13). Trách nhiệm của nhà báo và công dân trong thực
hành tự do báo chí nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mọi tổ chức, cá
nhân, góp phần xây dựng đất nước phát triển giàu mạnh (Điều 9).
Thực tiễn đã chứng
minh, báo chí cách mạng Việt Nam ngày càng lớn mạnh, quyền tự do báo chí được
bảo đảm. Tính đến hết năm 2022, Việt Nam có gần 41.000 người đang hoạt động
trong lĩnh vực báo chí, với 18.000 người được cấp thẻ nhà báo. Các cơ quan,
đoàn thể ở Trung ương và các địa phương có báo hoặc tạp chí; mọi giai cấp, tầng
lớp, thành phần xã hội, các tổ chức xã hội-nghề nghiệp... đều có tờ báo, tạp
chí chuyên biệt dành cho họ. Nhiều tờ báo đã chuyển đổi thành cơ quan báo chí
đa phương tiện, đa loại hình, hiện diện trên môi trường internet. Các loại hình
báo chí di động, báo chí mạng xã hội, báo chí trí tuệ nhân tạo... xuất hiện,
thỏa mãn nhu cầu tiếp nhận đa giác quan (nghe-nhìn-đọc) ở mọi lúc, mọi nơi của
công chúng. Đồng thời, các hình thức tương tác với công chúng được mở rộng. Mô
hình truyền thông hai chiều tạo cơ hội để công chúng được bày tỏ chính kiến,
quan điểm, nguyện vọng trước mọi vấn đề, sự việc đang diễn ra trong đời sống xã
hội; được tham gia vào tiến trình giải quyết các vấn đề mà xã hội đang đặt ra
như: Vấn đề bảo vệ môi trường; bảo vệ quyền trẻ em, quyền phụ nữ; chống biến
đổi khí hậu; chống tham nhũng, tiêu cực xã hội...
Tự do báo chí, tự do
ngôn luận ở Việt Nam là thực tiễn không thể phủ nhận, xuyên tạc. Việc bảo đảm tự
do báo chí, tự do ngôn luận cũng là một trong những mục tiêu xuyên suốt tiến
trình cách mạng Việt Nam; là đường lối lãnh đạo nhất quán của Đảng ở mọi kỳ,
được bảo đảm bằng hệ thống Hiến pháp, pháp luật và được nhân dân đồng lòng ủng
hộ. Với thực tế đó, không có tư duy “không quản được thì cấm” trong tự do ngôn
luận, tự do báo chí ở Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét