Trong thời gian qua những luận điệu
xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam của các thế lực thù địch thường
là: quá khứ thì sai lầm, hiện tại thì hết vai trò lịch sử. Chúng xuyên tạc
"thành quả của Cách mạng Tháng Tám là thành quả cay đắng. Chính quyền về
tay nhân dân, nhanh chóng rơi vào tay Đảng Cộng sản", "dù không có Đảng
Cộng sản, nhiều thuộc địa vẫn giành được độc lập mà ít tốn xương máu. Sự hao tổn
xương máu là do Đảng Cộng sản gây ra". Phủ nhận lịch
sử đấu tranh của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo, xuyên tạc láo xược một số khẩu
hiệu cách mạng trong cuộc kháng chiến, kể cả Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng của Chủ Tịch Hồ Chí Minh.
Bóp méo sự thật, đòi xét lại một số vấn đề lịch sử, v.v.. Còn vụ
án "nhóm xét lại chống Đảng" thì chúng xuyên tạc: "đây là một điểm
đen, một vết thương dai dẳng trong lịch sử và cơ thể chúng ta. Vụ án này chỉ là
mưu đồ của một người nhiều quyền lực, nhiều tham vọng"...
Chúng
rêu rao Đảng có nhiều sai lầm trong quá khứ và dù quá khứ có làm được một số việc
thì bây giờ chuyển sang thời kỳ mới, Đảng đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ
khả năng để độc quyền lãnh đạo đất nước. Chúng đổ lỗi cho Đảng ta về sự tụt hậu kinh tế so với những nước
láng giềng như "tập trung nỗ lực vào vấn đề chính trị, thay vì vấn đề kinh
tế", "sợ hao mòn quyền kiểm soát về chính trị và kinh tế của Đảng".
Có thể khẳng định lịch
sử là nhân chứng hùng hồn nhất về vai trò lãnh đạo cách mạng đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng Tổ quốc của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Sự lãnh đạo của Đảng ta được nhân dân thừa nhận ghi vào Hiến pháp nước Cộng
hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngay trong Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố ra đời Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, khẳng định sứ mệnh cao cả của Nhà nước và nhân dân ta là đấu tranh cho độc
lập dân tộc và dân chủ, quyết đem hết tinh thần và lực lượng để bảo vệ, giữ gìn
thành quả dân chủ và quyền dân tộc độc lập mà toàn dân Việt Nam đã chiến đấu,
hy sinh giành được trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và chế độ
phong kiến suốt gần một thế kỷ.
Trong
bất cứ xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, giai cấp nào cũng có nhu cầu tổ
chức chính đảng của mình để bảo vệ lợi ích giai cấp mà mình đại diện, do đó xuất
hiện nhiều chính đảng và cuộc đấu tranh giữa các chính đảng. Chính đảng nào
cũng muốn giành chính quyền nhà nước và nhân danh dân tộc, độc
quyền lãnh đạo nhà nước để đại diện cho lợi ích riêng của giai cấp của mình.
Tương quan lực lượng giữa các giai cấp và kết quả cuộc đấu tranh giữa các giai
cấp quyết định vị thế của mỗi chính đảng trong xã hội.
Ở
nước ta, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, các phong trào và chính đảng đại
biểu cho các giai cấp và tầng lớp yêu nước khác nhau đã bước lên vũ đài chính
trị, một số người từng là vua quan phong kiến, đến nông dân, tiểu tư sản, trí
thức đã giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhưng đều thất bại vì không có
đường lối đúng. Trong thực tiễn của đấu tranh, ngọn cờ yêu nước đã chuyển sang
tay Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân và đại biểu
cho lợi ích dân tộc, do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và lãnh đạo đã làm nên thắng lợi
vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Lịch sử hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ đã lật mặt nạ nhiều đảng phái nhân danh "yêu nước",
nhưng lại đặt lợi ích của bản thân mình cao hơn lợi ích dân tộc, bám gót ngoại
bang, chống lại Tổ quốc, chống lại nhân dân. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam đứng
mũi chịu sào, chấp nhận mọi hy sinh để đổi lấy độc lập, tự do cho nhân dân, cho
đất nước. Sự lãnh đạo độc tôn của Đảng ta, do thực tiễn cách mạng nước ta quy định.
Đó cũng chính là thành quả cách mạng quan trọng nhất của nhân dân ta, chứ không phải của riêng Đảng.
Không
một ai, không một thế lực nào có thể phủ nhận rằng, trong hoàn cảnh thế giới diễn
biến hết sức phức tạp, hơn 38
năm qua, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã tiến hành đổi mới có
kết quả, đạt nhiều thành tựu to lớn, quan trọng và có ý nghĩa lịch sử. Đến nay,
tuy còn không ít khó khăn, nhưng rõ ràng kinh tế nước ta có những bước phát triển
khá, nhịp độ tăng trưởng GDP vào loại cao trên thế giới với chất lượng và hiệu
quả ngày càng tiến bộ, đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện; chính trị ổn
định; quan hệ đối ngoại mở rộng. Đất nước đã ra khỏi tình trạng khủng hoảng
kinh tế - xã hội và đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Xuyên tạc các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng
nhằm chia rẽ nội bộ Đảng ta.
Các
thế lực chống cộng tập trung đánh vào các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng,
đặc biệt là vào nguyên tắc tập trung dân chủ; mà theo họ "hầu hết các đảng
cộng sản trên thế giới đã từ bỏ, vì thực chất, sự tập trung quyền lực bao giờ
cũng đưa tới chỗ triệt tiêu dân chủ. Dân chủ nhiều nhất, chỉ trở thành đồ rởm,
chỉ có tác dụng trang trí cho sự tập trung quyền lực".
Chúng
xuyên tạc, cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ đến nay đã lỗi thời, thực hiện
tập trung dân chủ sẽ dẫn tới mất dân chủ trong Đảng, làm cho Đảng rơi vào quân
phiệt, độc đoán, độc tài; ra sức tán dương và khuyến khích thực hiện dân chủ, tự
do, dân chủ cực đoan, trong đảng nên có nhiều phe nhóm đối lập, để bàn bạc,
tranh luận, đấu tranh. Sử dụng triệt để những chiêu bài "dân chủ",
"đa nguyên", họ cổ vũ sự bất đồng ý kiến về quan điểm trong Đảng, rồi
lợi dụng sự bất đồng đó để chia rẽ Đảng thành những phe phái đối lập Những kẻ
phản bội lý tưởng xã hội chủ nghĩa, cơ hội, hữu khuynh, xét lại, những hành động
chống Đảng, chống chế độ được ve vãn, tâng bốc, lôi kéo, mời chào, tặng cho đủ
thứ danh hiệu mỹ miều. Còn những người đảng viên chân chính thì bị nhạo báng,
chế giễu là bảo thủ, cứng nhắc, là giáo điều, nịnh hót. Họ đối lập những người
lãnh đạo Đảng với đông đảo đảng viên, chia rẽ lớp đảng viên này với lớp đảng
viên khác, mưu toàn gây ra mâu thuẫn nội bộ.
Gần
đây trong nước xuất hiện nhiều cuốn "nhật ký", "hồi ký",
tài liệu tung ra những chuyện giật gân trong sinh hoạt của lãnh đạo, "đề
cao" người này, "hạ thấp" người kia, kích động gây chia rẽ lãnh
đạo cấp cao của Đảng...
Tập
trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức rất cơ bản của một đảng Mác - Lênin chân
chính, bảo đảm phát huy sáng kiến và tính tích cực sáng tạo của mọi tổ chức đảng
và đảng viên, đồng thời là điều kiện giữ gìn thống nhất ý chí, thống nhất hành
động của Đảng. Đánh vào nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng, các thế lực thù
địch muốn phá vỡ sự thống nhất của Đảng, làm tan rã hoặc phân liệt Đảng về tổ
chức.
Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững nguyên tắc tập trung dân
chủ. Dân chủ nghĩa là mọi người cùng bàn để cùng làm. Có các ý kiến khác nhau
thì tranh luận. Cuối cùng, lấy ý kiến của đa số làm nghị quyết chung và cùng
làm theo nghị quyết chung đó. Muốn hành động thống nhất thì phải có người điều
khiển, lãnh đạo. Người lãnh đạo phải được đa số tập thể bầu ra. Đã bầu ra người
lãnh đạo thì phải phục tùng. Không phục tùng thì phải xử lý kỷ luật để bảo đảm
sự thống nhất về tổ chức. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp
trên, mỗi người đảng viên và mọi tổ chức cơ sở đảng phục tùng Trung ương, do chính Đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng bầu ra, đó là tập trung dân chủ, là nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Nguyên
tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp chặt chẽ hài hoà giữa hai mặt tập trung và
dân chủ trong một mối quan hệ hữu cơ biện chứng chứ không phải chỉ tập trung hoặc
chỉ dân chủ. Dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung, cũng như tập trung
là cái bảo đảm cho dân chủ thực hiện. Dân chủ không phải là "tính từ"
của tập trung. Việc tuyệt đối hoá một trong hai mặt đều có thể dẫn đến những
sai lầm nguy hiểm có hại cho sự lãnh đạo và sức mạnh của Đảng. Nguyên tắc tập
trung dân chủ chính là điều kiện bảo đảm cho tổ chức đảng cố kết về mặt tổ chức,
thống nhất ý chí, hành động; đồng thời phát huy sáng kiến và tính tích cực sáng
tạo của mọi đảng viên, mọi tổ chức đảng.
Trong
tình hình hiện nay, chúng ta vừa phải mở rộng dân chủ (vì dân chủ là bản chất,
là nội dung, là động lực của xã hội), vừa phải giữ gìn kỷ cương, giữ gìn kỷ luật
thống nhất, tính tập trung cao; kết hợp hai mặt tập trung và dân chủ, thực hiện
thật tốt nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thực
tế trong Đảng còn hiện tượng thiếu dân chủ, còn hiện tượng độc đoán, quan liêu,
cần phê phán. Nhưng phê phán phải đi đôi với xây dựng để thực hiện cho đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực tế lịch sử cho thấy,
trong chốc lát buông lỏng kỷ luật, buông lỏng tính tập trung, nhấn mạnh một chiều
tính dân chủ, để cho các phần tử cơ hội, cực đoan tự do hoạt động, một số đảng
cộng sản có lịch sử mấy chục năm đấu tranh anh dũng, kiên cường, đã rơi vào
tình trạng nội bộ bị chia rẽ, tổ chức rối loạn, thậm chí tan rã thành từng mảng (Liên Bang Nga). Cho nên, nếu
có đảng cộng sản nào đó đã bỏ nguyên tắc tập trung, dân chủ thì không thể coi
là đảng cộng sản nữa mà thực chất đã trở thành một câu lạc bộ dành cho các sinh
hoạt "ngoại khoá" mà thôi.
Các
thế lực cơ hội, thù địch đưa ra luận điệu độc đảng là độc tài, độc đoán, là thủ
tiêu dân chủ, thủ tiêu động lực phát triển đất nước. Với ý đồ xấu
xa đòi xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xoá bỏ chế độ xã hội chủ
nghĩa mà các thế hệ người Việt Nam đã hy sinh biết bao xương máu mới giành lại
được. Thuyết này dựa vào "lý luận rất bài bản" của quan điểm chống cộng
khét tiếng mang tên "Toàn trị" được trường phái Phrăng Phuốc nêu ra
vào những năm 80 của thế kỷ XX. Theo quan điểm này, những thế lực chính trị một
khi đã khống chế toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng
của đời sống xã hội thì sẽ dẫn đến "chủ nghĩa Toàn trị". "Chủ
nghĩa Toàn trị sẽ dẫn đến độc tài, phátxít, mất dân chủ, bóp nghẹt tự do và dẫn
đến thảm hoạ. Đảng Cộng sản là đảng theo "chủ nghĩa Toàn trị". Chúng
lặp đi, lặp lại: một đảng lãnh đạo đã dẫn tới chế độ "Đảng trị" gây
tai hoạ cho xã hội; mô tả Đảng ta có "một bộ máy đã tạo nên một xã hội
không có tự do dân chủ", "một bộ máy độc đoán, độc tài, toàn trị",
"đầy tham nhũng, phản dân chủ", bởi vì xã hội ta chỉ có một đảng lãnh
đạo, độc đảng thì kéo theo nhiều thứ "độc": độc tài, độc đoán, độc
quyền. Họ kết tội Đảng: "Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là
tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thuỷ Hoàng và các vua quan tàn bạo của
Trung Quốc, cộng với tội ác của chế độ phátxít, độc tài". Những luận điệu
trên đây đã được các nghị sĩ Mỹ đưa vào bản dự thảo Đạo luật về nhân quyền Việt
Nam trình và thông qua Hạ viện Mỹ ngày 6-9-2001 đã ghi trong Điều 1: "Việt
Nam là một quốc gia độc đảng, do Đảng Cộng sản Việt Nam cai trị và kiểm
soát". Trên mạng Website mang tên "Dân chủ" gần đây, có kẻ đã vu
cáo trắng trợn: Do sự hiện hữu của độc quyền chuyên chế đảng trị, dân tộc Việt
Nam không chỉ khó thực hiện lý tưởng dân chủ mà còn khó tận hưởng các quyền tự
do căn bản.
Sự lãnh đạo độc tôn của Đảng không đồng nghĩa với lộng
quyền. Trong những năm đổi mới, các dự thảo nghị quyết của Đảng về các vấn đề
quan trọng đều được đưa ra lấy ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã
hội, được đăng tải trên các báo chí để lấy ý kiến của các tầng lớp nhân dân, cả
trong và ngoài nước, có khi phải trải qua 5 - 7 lần dự thảo mới đưa ra Hội nghị
Trung ương bàn và ra nghị quyết chính thức. Không có chuyện không ai được thảo
luận.
Theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ thuộc bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá và phát triển quan điểm chủ nghĩa Mác -
Lênin về dân chủ. Theo Người, dân chủ nghĩa là "dân là
chủ và dân làm chủ". Người chỉ rõ: "NƯỚC TA
LÀ NƯỚC DÂN CHỦ”. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử
ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân" hay chủ trương theo tinh thần nghị quyết Đại hội XIII của Đảng “Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”.
Phát
huy dân chủ chính là mục tiêu, đồng thời là động lực của công cuộc đổi mới ở Việt
Nam. Tuy nhiên, dân chủ không thể tách rời luật pháp. Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa không thể tách rời việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Dân chủ còn phải gắn
với dân trí, với trình độ học vấn.
Trong
công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng điều này không có nghĩa là sẽ dẫn đến đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, trên
thực tế, không chỉ phụ thuộc vào kinh tế, mà còn phụ thuộc vào một loạt các yếu
tố khác, như tương quan so sánh lực lượng giai cấp, vị thế, vai trò của đảng cầm quyền, hoàn cảnh lịch sử cụ
thể, truyền thống lịch sử... Chế độ một đảng hay đa đảng không phải là dấu hiệu
của dân chủ hay không dân chủ. Đa nguyên chính trị trong xã hội tư bản, biểu hiện
thành đa đảng, các đảng đều có quyền tự do tranh luận, ứng cử, tranh cử...
nhưng về thực chất, cũng chỉ là nhất nguyên chính trị: vì tất cả các đảng này đều
từ một nguồn gốc, một mục đích là thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp tư
sản, chứ không phải thực hiện quyền của đại đa số nhân dân lao động. Dân chủ
hay không là ở chỗ nhà nước, có thực sự là của dân, do dân, vì dân... có thực sự
vì lợi ích của nhân dân hay không.
Hơn
38 năm đổi mới,
bên cạnh những thành tựu to lớn về kinh tế, chúng ta cũng đã đạt được những
thành tựu quan trọng về phát huy dân chủ của nhân dân. Nền dân chủ xã hội có bước
khởi sắc, sinh hoạt xã hội cởi mở hơn. Các hình thức dân chủ - cả trực tiếp và
gián tiếp, từng bước được mở rộng. Cùng với việc Quy chế dân chủ ở cơ sở được
ban hành, quyền dân chủ của nhân dân từng bước được thể chế hoá trong chính
sách, pháp luật và các văn bản dưới luật. Việc cải cách thể chế, thủ tục hành
chính và tổ chức bộ máy Nhà nước đang được triển khai. Sinh hoạt của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân các cấp được đổi mới theo hướng ngày càng phản ánh được tiếng
nói, nguyện vọng của nhân dân. Báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng bám sát thực tiễn đời sống, phản
ánh kịp thời các vấn đề bức xúc của đời sống xã hội… Những thành tựu về phát
huy dân chủ đó, cho thấy Đảng ta thường xuyên coi trọng việc phát huy quyền dân
chủ của nhân dân; mở rộng dân chủ đi liền việc thiết lập trật tự kỷ cương phép
nước.
Tóm lại: Đấu tranh phản bác những luận điệu sai
trái của các thế lực thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là cuộc chiến đấu
lâu dài, khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ
chức, lực lượng, các cấp, các ngành làm thất bại âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa
bình” “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội;
làm cho chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống xã hội./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét