“Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận
và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm
kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện
truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”. Đó là nội dung chính của Điều
19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua
và công bố theo Nghị quyết 271A (III), ngày 10-12-1948. Hơn 70 năm tồn tại,
Tuyên ngôn vẫn còn nguyên giá trị, được đánh giá là bản tuyên ngôn có ý nghĩa
nhân văn cao cả, đã, đang và sẽ còn là mục tiêu phấn đấu của toàn thể nhân
loại.
Với mỗi quốc gia,
dân tộc, việc kế thừa, phát triển, vận dụng, tuân thủ các giá trị của Tuyên
ngôn có sự khác nhau nhất định, do chi phối bởi đặc thù về chính trị, kinh tế,
xã hội, văn hóa, ... Nhưng có một điểm chung bắt buộc là, các quyền tự do ấy,
phải trong khuôn khổ pháp luật, như chính Điều 29 và 30 của Tuyên ngôn quy
định.
Tự do ngôn luận là tự do phát biểu ý
kiến của mình bàn bạc một công việc chung; là quyền của công dân được tham gia
bàn bạc, thảo luận, đóng góp ý kiến vào những vấn đề chung của xã hội.
Thực tiễn trong quá trình xây dựng và
phát triển đất nước, chúng ta luôn phải đối mặt với các phần tử và thế lực thù
địch cả ở trong và ngoài nước, trên nhiều lĩnh vực, mặt trận khác nhau, trong
đó có mặt trận tư tưởng, thông tin. Các thế lực phản động, thù địch luôn tìm
mọi cách để xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo, vu khống các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta trên mọi lĩnh vực, phủ nhận các thành tựu đã đạt được, kể
cả những thành tựu được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Tự do ngôn luận mà các thế lực thù địch sử dụng là đề cao
tư tưởng của các cá nhân, không đi kèm trách nhiệm và các khuôn khổ luật pháp,
đạo đức xã hội, không quan tâm hoặc xem nhẹ những hệ quả gây ra cho xã hội,
cộng đồng. Điều đó khác rất xa với tự do ngôn luận, tự do báo chí chân chính có
trách nhiệm với sự phát triển tiến bộ của xã hội và nhân loại. Vì vậy,
chúng ta càn phải nhận thức đúng đắn trước những luận điệu xuyên tạc về vấn đề
tự do ngôn luận của các thế lực thù địch.
Đối với Việt Nam chúng ta, ngay từ trong cuộc đấu tranh
giành độc lập, Mặt trận Việt Minh do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đứng đầu đã giương
cao ngọn cờ đòi quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức, tín
ngưỡng, đi lại, bác bỏ áp bức bất công của chính quyền thực dân.
Khi giành được chính quyền, Hiến pháp đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 đã hiến định quyền tự do ngôn luận, tự do
xuất bản và các quyền tự do khác của công dân. Trải qua các lần sửa đổi, bổ
sung, Hiến pháp các năm 1959, 1980, 1992 và gần đây là Hiến pháp năm 2013 luôn
nhất quán khẳng định quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân.
Cùng với Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, Luật
Báo chí cũng đặt ra các nền móng cơ bản và thống nhất cho tự do ngôn luận, tự
do báo chí. Điều 10 Luật Báo chí năm 2016 quy định: “Công dân có quyền: 1. Sáng
tạo tác phẩm báo chí; 2. Cung cấp thông tin cho báo chí; 3. Phản hồi thông tin
trên báo chí; 4. Tiếp cận thông tin báo chí; 5. Liên kết với cơ quan báo chí
thực hiện sản phẩm báo chí; 6. In, phát hành báo in”. Như vậy, dù Việt Nam
không có báo chí tư nhân nhưng luật pháp quy định mọi công dân đều có quyền
tham gia vào hoạt động báo chí.
Các thế lực chống phá thường vin vào việc Việt Nam không
có mô hình báo chí tư nhân mà cố tình lờ đi rằng, mọi công dân đều được quyền
tham gia sáng tạo và xuất bản báo chí, mọi tầng lớp, tổ chức trong xã hội đều
có cơ quan báo chí đại diện của mình.
Điều 11 Luật Báo chí năm 2016 nêu rõ: Công dân có quyền
phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo
chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội,
tổ chức chính trị-xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề
nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác. Điều 13 ghi rõ: “Báo chí không bị kiểm
duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.
Không chỉ về phương diện pháp lý mà trong thực tiễn, tự
do báo chí ở Việt Nam cũng được biểu hiện sinh động. Nền báo chí Việt Nam phát
triển mạnh mẽ cả về số lượng, loại hình, quy mô, công nghệ làm báo. Theo
thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, tính đến tháng 5-2023, cả nước có
808 cơ quan báo chí (trong đó: 138 báo, 670 tạp chí) và 42.400 người hoạt động
trong lĩnh vực báo chí, gấp khoảng 6 lần so với thập niên 2000.
Như vậy, cả trên phương diện pháp lý và hoạt động thực
tiễn, quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam đều được thể hiện rõ ràng, luôn gắn với
quy định pháp luật, luôn hướng tới mục đích phụng sự nhân dân, góp phần thúc
đẩy tiến bộ xã hội. Tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam không phải là
ngôn luận tự do, báo chí tự do theo ý chí cá nhân, mà là tự do xây dựng vì những
mục tiêu tốt đẹp, vì trách nhiệm chân chính với cộng đồng, vì một thể chế chính
trị-xã hội của dân, do dân, vì dân.
Các thế lực thù địch dù có tấn công, chỉ trích, chống phá
như thế nào cũng không thể thay đổi bản chất tự do ngôn luận, ở Việt Nam. Thực
ra đó chỉ là những tiếng nói tiêu cực, lạc lõng của những người cố tình đi
ngược chiều với sự phát triển bền vững của đất nước ta, nhân dân ta và của nền
báo chí cách mạng đáng tự hào của chúng ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét