Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 27 tháng 11, 2023

NVE41 - NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI LÀ NGUỒN LỰC QUAN TRỌNG ĐÓNG GÓP CHO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

 

Với mục tiêu nhằm huy động nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN) tham gia phát triển đất nước trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn với mục tiêu phát triển của Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 như Đại hội Đảng lần XIII đã đề ra; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trong và ngoài nước; củng cố sức mạnh, tiềm năng của cộng đồng NVNONN đóng góp cho đất nước. Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị riêng để thu hút, tạo điệu kiện cho người Việt Nam ở nước ngoài về nước cống hiến, sinh sống và làm việc. Quyết định số 1334/QĐ-TTg ngày 10/11/2023 phê duyệt Đề án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” đã cụ thể hóa những vấn đề đó.

Lợi dụng vấn đề này, vừa qua trên các trang mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động đã tán phát bài viết “Chính phủ Việt Nam muốn thành lập các hội đoàn phủ kín cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài” với mục đích bôi nhọ ,nói xấu Đảng, nói xấu chế độ; đồng thời kích động phá hoại khối đoàn kết toàn dân tộc.

Trước tiên, cần thống nhất và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn xã hội về công tác thu hút nguồn lực của NVNONN phục vụ phát triển; rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chính sách, pháp luật tạo điều kiện cho NVNONN yên tâm quay trở về đất nước đầu tư, kinh doanh. Các bộ, ngành, địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể và tổ chức kinh tế - xã hội xây dựng chính sách, đề án, chương trình cụ thể về việc thu hút nguồn lực của NVNONN. Xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ từ Trung ương đến địa phương về triển khai thu hút, phát huy nguồn lực NVNONN; đẩy mạnh triển khai các biện pháp củng cố khối Đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới.

Tiếp theo, cần thu hút chuyên gia, trí thức, nhân tài NVNONN và lao động người Việt trở về nước. Cải thiện môi trường đầu tư, duy trì đà tăng kiều hối hàng năm, hỗ trợ NVNONN quảng bá, xúc tiến thương mại sản phẩm Việt Nam tại các thị trường ngoài nước; có các chính sách, biện pháp cụ thể phát huy nguồn lực "mềm" của cộng đồng NVNONN. Việc thu hút, tạo điều kiện để các trí thức của đất nước đang ở nước ngoài về nước làm việc hay đầu tư không chỉ là vấn đề đương nhiên mà còn là vấn đề nhân văn, tạo điều kiện để cộng đồng người Việt ở nước ngoài có cơ hội cống hiến, đóng góp cho quê hương mình, đất nước mình.

Cùng với đó, thúc đẩy hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế và chính quyền các nước có người Việt Nam sinh sống để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của NVNONN. Củng cố, phát triển các hội đoàn chuyên gia, trí thức, doanh nhân NVNONN làm nòng cốt, dẫn dắt sự phát triển của cộng đồng ở sở tại. Thu hút nhóm NVNONN đã thành đạt ở sở tại tham gia trợ giúp nhóm còn yếu thế. Đẩy mạnh công tác dạy tiếng Việt, truyền thụ bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của Việt Nam cho các thế hệ thanh thiếu nhi Việt Nam ở nước ngoài, gắn kết thế hệ trẻ NVNONN với trong nước.

Cần khẳng định rằng, Ðảng và Nhà nước ta luôn nhất quán chủ trương coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời, là nguồn lực quan trọng, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, chúng ta cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu xuyên tạc trong bài viết “Chính phủ Việt Nam muốn thành lập các hội đoàn phủ kín cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài” của các thế lực thù địch nhằm bôi nhọ, nói xấu Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam.

NVH41 - Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quan điểm của đảng về nhà nước pháp quyền qua các kỳ đại hội.

 

            Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:

          Kế thừa, tiếp thu, chọn lọc những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng vào điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đưa ra tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Trong suốt quá trình tổ chức, xây dựng Nhà nước, Hồ Chí Minh luôn coi trọng hai vấn đề cơ bản: một là. xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân; hai là, bộ máy nhà nước phải được tổ chức hợp pháp và hoạt động trên cơ sở hiến pháp.

          Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước pháp quyền của dân là nhà nước do nhân dân làm chủ, nhân dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực để xây dựng các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước pháp quyền do dân, tức là nhà nước đó phải do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình; nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước hoạt động; nhà nước do nhân dân phê bình và xây dựng, giúp đỡ. Mọi cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân, không có một ngoại lệ. Hồ Chí Minh khẳng định: “nước ta là nước dân chủ. Bao nhiều lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Và chỉ có một nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là nhà nước vì dân - phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính.

          Cũng theo Hồ Chí Minh, Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà ở đó pháp luật được đề cao. Nói cách khác, Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ - trước hết phải là nhà nước hợp hiến; tiếp đó là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trên thực tế. Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật. Mọi quyền dân chủ của người dân nhất thiết phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế. Do đó, để tiến tới một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, theo Hồ Chí Minh, vấn đề căn bản cốt lõi là phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng hình thành đội ngũ cán bộ, viên chức có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ, có đạo đức cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

          Quan điểm của đảng về nhà nước pháp quyền qua các kỳ đại hội:

          Nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp lâu dài, vấn đề này đã từng được đề cập qua nhiều kỳ đại hội Đảng, gần đây nhất, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục làm rõ nội hàm “Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa”. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vấn đề lớn, phức tạp, lâu dài.

          Quan điểm nhất quán của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền là "kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

          Nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội".

“Qua hơn 35 năm đổi mới và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011), công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Nhận thức, lý luận về Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng thống nhất, đầy đủ và sâu sắc hơn.

          Hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện một bước cơ bản; vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật được chú trọng trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước và xã hội. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực. Bộ máy nhà nước từng bước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tổ chức và hoạt động của Quốc hội có nhiều đổi mới, chất lượng được nâng cao.

          Hoạt động của Chính phủ chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô, tháo gỡ rào cản, phục vụ, hỗ trợ phát triển. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp có bước đột phá trên một số lĩnh vực. Tổ chức bộ máy của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên.

          Quyền con người, quyền công dân theo Hiến định tiếp tục được cụ thể hoá bằng pháp luật và thực hiện tốt hơn trên thực tế; dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện được tăng cường. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội từng bước được đổi mới.

          Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được hoàn thiện, vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

          Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới.  Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được luận giải một cách đầy đủ, thuyết phục; tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu.

          Quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ; ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên và Nhân dân chưa nghiêm; cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, quyền con người, quyền công dân có mặt chưa được phát huy đầy đủ; cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

          Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập nêu trên chủ yếu là do: việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vấn đề lớn, phức tạp, lâu dài.  Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, hoàn thiện lý luận chưa được quan tâm đúng mức. Quyết tâm chính trị, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền trong thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra”. Đoạn trích trong ngoặc kép là đánh giá của Đảng tại Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII.

          Đại hội lần thứ XIII của Đảng diễn ra vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đánh giá 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

          Nội dung văn kiện của Đảng (qua các kỳ đại hội) ngày càng nhiều đổi mới, tiến bộ về chất. Nghiên cứu, tìm hiểu kỹ nội dung các văn kiện đại hội Đảng và Đại hội lần thứ XIII sẽ thấy, Đảng kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển, trên cơ sở phát huy tối đa dân chủ, trân trọng lắng nghe ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, cán bộ, đảng viên và nhân dân.

          Nội dung các văn kiện đồng thời đã thể hiện sự tiếp thu có chọn lọc nhiều giá trị chung của nhân loại. Quan điểm, tư tưởng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Pháp quyền Việt Nam XHCN đã được đặt ra từ lâu và tiếp tục được đại hội lần thứ XIII của Đảng phát triển với nhiều nội dung đột phá, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của tình hình đất nước.

          Tư tưởng về nhà nước pháp quyền là một giá trị quý báu của nhân loại được hình thành từ thời xa xưa, trong quan điểm của các nhà tư tưởng như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN), Xixêrôn (l06-43 Tr.CN). Sau đó, tư tưởng về nhà nước pháp quyền được các nhà chính trị và pháp lý như John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), J.J. Rút-xô (1712 - 1778), I.Kant (1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831)… phát triển như một thế giới quan pháp lý mới, đó là thế giới quan chống lại sự chuyên quyền, đặc quyền, tình trạng vô pháp luật, khẳng định mạnh mẽ những tư tưởng nhân đạo, các nguyên tắc tự do bình đẳng. Đây chính là nội dung cốt lõi của học thuyết nhà nước pháp quyền.

          Khái niệm nhà nước pháp quyền, theo các nhà nghiên cứu, nguyên nghĩa của từ này là thuật ngữ “The Rule of Law”,  được hiểu là sự tối thượng của pháp luật. Một trong những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật.

          Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN, kỷ luật, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nguyên tắc “thượng tôn pháp luật” là yếu tố cốt lõi của Nhà nước pháp quyền và là điều kiện để xây dựng XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.

 

NVH41 - Nhận thức đúng đắn về Quyết định số 1334/QĐ-TTg ngày 10/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ.

 

           Ngày 10/11/2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1334/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới”.

          Người Việt Nam ở nước ngoài là nguồn lực quan trọng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.

          Quan điểm chỉ đạo:

          Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc và phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng dân tộc, sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài (gọi tắt là NVNONN), trong đó có tranh thủ, huy động nguồn lực, là một bộ phận có tính chiến lược trong công tác đại đoàn kết dân tộc và đóng góp trực tiếp vào mục tiêu đại đoàn kết dân tộc.

          Bám sát chủ trương tranh thủ tối đa nguồn lực NVNONN tham gia đóng góp phục vụ phát triển đất nước, phù hợp với ưu tiên, định hướng phát triển đất nước nêu tại văn kiện Đại hội Đảng XIII, Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, Chỉ thị 45-CT/TW ngày 19 tháng 5 năm 2015, Kết luận 12-KL/TW ngày 12 tháng 8 năm 2021 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 169/NQ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ. Xác định nguồn lực kiều bào là một nguồn lực có ý nghĩa quan trọng trong tổng thể các nguồn lực từ bên ngoài, cần được tranh thủ để phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

          Quán triệt sâu sắc quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng để phục vụ các mục tiêu chiến lược phát triển đất nước từ nay đến 2030, tầm nhìn 2045, cần phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng, lấy lòng yêu nước là mẫu số chung.

          Các chủ trương, chính sách, biện pháp về tranh thủ nguồn lực của NVNONN được triển khai nhất quán, thông suốt, toàn diện từ Trung ương đến địa phương.

          Phát huy nguồn lực của NVNONN phải gắn liền với quan điểm của Đảng, Nhà nước về tạo điều kiện thuận lợi, quan tâm, chăm lo và bảo vệ quyền lợi chính đáng của NVNONN. Các chính sách, biện pháp thu hút nguồn lực chủ yếu dựa trên yếu tố gắn kết lợi ích, ý thức hướng về cội nguồn, lòng yêu nước, khuyến khích đóng góp mang tính tự nguyện của cộng đồng.

          Phương châm:

          Việc thu hút nguồn lực NVNONN dựa trên tiềm năng, năng lực, tính khả thi của nguồn lực, đồng thời đặt trong tổng thể chính sách Đại đoàn kết dân tộc, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đóng góp vào việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và các nước, góp phần hỗ trợ kiều bào sinh sống ổn định, tiếp tục đóng góp có hiệu quả cho sự phát triển của đất nước.

          Kế thừa các chủ trương, chính sách do Chính phủ, bộ, ngành, địa phương đã ban hành hoặc đang triển khai có yếu tố về người Việt Nam định cư ở nước ngoài; xác định vấn đề cần sửa đổi (nếu có) hoặc ban hành mới chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho kiều bào về thăm quê hương, thân nhân, đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học - công nghệ, hoạt động văn hóa - nghệ thuật, từ thiện, xã hội, du học sinh, lao động trở về lập nghiệp...

          Các chính sách, quy định, biện pháp nhằm phát huy nguồn lực của NVNONN cần mạnh dạn, có đột phá, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng của đông đảo NVNONN.

          Kết hợp hài hòa giữa công tác thu hút với công tác bồi dưỡng, hỗ trợ, phát triển nguồn lực NVNONN vì mục tiêu lâu dài.

          Trong khi tranh thủ nguồn lực kiều bào, tiếp tục tăng cường cảnh giác, kiên quyết đấu tranh đối với các âm mưu và hành động khống chế cộng đồng, lợi dụng cộng đồng để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

          Đảm bảo hài hòa giữa ban hành chính sách ưu đãi để thu hút, vận động cộng đồng và việc rà soát, siết chặt công tác quản lý, tránh lỗ hổng về pháp lý để đối tượng xấu lợi dụng.

          Các bộ, ngành, địa phương, đoàn thể, tổ chức, doanh nghiệp giữ vai trò chủ đạo, chủ động trong công tác thu hút nguồn lực cụ thể.

          Dành kinh phí phù hợp, thỏa đáng cho công tác thu hút nguồn lực NVNONN, hài hòa giữa kinh phí thực hiện ở Việt Nam và tại nước ngoài.

 

 

          Mục tiêu tổng quát của Đề án nhằm huy động nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài tham gia phát triển đất nước trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn với mục tiêu phát triển của Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 như Đại hội Đảng lần XIII đã đề ra; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trong và ngoài nước; củng cố sức mạnh, tiềm năng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp cho đất nước.

          Mục tiêu cụ thể là tăng cường thống nhất nhận thức người Việt Nam ở nước ngoài là nguồn lực ngày càng quan trọng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc, từ đó xây dựng các định hướng, chủ trương, biện pháp mang tính tổng thể, cơ bản, lâu dài nhằm thu hút và phát huy tối đa nguồn lực này. Các bộ, cơ quan, địa phương xây dựng đề án, chương trình, kế hoạch về thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài. Thiết lập cơ chế triển khai, phối hợp đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở và trên phạm vi toàn quốc, trong và ngoài nước.

          Tạo môi trường, cơ chế trong nước để người Việt Nam ở nước ngoài yên tâm gắn bó, phát huy nguồn lực của mình với đất nước. Xây dựng hành lang pháp lý để người Việt Nam ở nước ngoài cơ bản được hưởng môi trường pháp lý tương đương với người trong nước khi tiến hành các hoạt động đầu tư, kinh doanh, khoa học công nghệ, văn hóa thể thao, nhân đạo...

          Tạo khuôn khổ, cơ chế bền vững khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài tham gia phát triển đất nước trên các lĩnh vực phù hợp với nguồn lực của cộng đồng. Duy trì đà tăng trưởng của kiều hối; thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư FDI của người Việt Nam ở nước ngoài; đẩy mạnh phát huy hiệu quả nguồn lực của tri thức NVNONN thúc đẩy chuyển giao tri thức và kỹ năng; thu hút và sử dụng hiệu quả lực lượng lao động, du học sinh trở về; triển khai hiệu quả các sáng kiến, đóng góp từ thiện nhân đạo, xã hội của các cá nhân, tổ chức người Việt Nam ở nước ngoài tại Việt Nam; phát huy vai trò cầu nối của người Việt Nam ở nước ngoài trên các lĩnh vực khoa học - công nghệ kinh tế - thương mại, văn hoá, xã hội...

          Củng cố mạng lưới người Việt Nam ở nước ngoài trên toàn thế giới. Mục tiêu của Đề án là củng cố mạng lưới người Việt Nam ở nước ngoài trên toàn thế giới. Hoàn thành xây dựng Đề án cơ sở dữ liệu về người Việt Nam ở nước ngoài. Phấn đấu 100% các địa bàn có đông cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài thành lập được các hội, đoàn.

          Hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài phát triển, có vị thế ở sở tại; tăng cường sự gắn kết, giao lưu trong nước giữa người Việt Nam ở nước ngoài với các tổ chức nhân dân, hội đoàn trong nước.

          Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, công tác lãnh sự, bảo hộ công dân, thông tin, trao đổi với người Việt Nam ở nước ngoài, quản lý lao động, du học sinh Việt Nam ở nước ngoài.

          3 nhóm giải pháp

          Đề án đưa ra 3 nhóm giải pháp để phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới.

          Nhóm 1: Giải pháp chung về nâng cao nhận thức, chính sách, tổ chức và cơ chế phối hợp

          Nhóm giải pháp này gồm: Thống nhất và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn xã hội về công tác thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển; rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chính sách, pháp luật tạo điều kiện cho người Việt Nam ở nước ngoài yên tâm quay trở về đất nước đầu tư, kinh doanh.

          Các bộ, ngành, địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể và tổ chức kinh tế - xã hội xây dựng chính sách, đề án, chương trình cụ thể về việc thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài.

          Xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ từ Trung ương đến địa phương về triển khai thu hút, phát huy nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài; đẩy mạnh triển khai các biện pháp củng cố khối Đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới.

          Nhóm 2: Giải pháp riêng đối với từng đối tượng, loại nguồn lực

          Thu hút chuyên gia, trí thức, nhân tài NVNONN và lao động người Việt trở về nước.

          Cải thiện môi trường đầu tư, duy trì đà tăng kiều hối hàng năm, hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài quảng bá, xúc tiến thương mại sản phẩm Việt Nam tại các thị trường ngoài nước; có các chính sách, biện pháp cụ thể phát huy nguồn lực "mềm" của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

          Nhóm 3: Giải pháp bồi dưỡng, phát triển cộng đồng NVNONN ở sở tại

          Thúc đẩy hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế và chính quyền các nước có người Việt Nam sinh sống để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài.

          Tăng cường phối hợp giữa cơ quan chức năng của Việt Nam và sở tại để hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, ổn định, phát triển và hội nhập vào sở tại. Tạo điều kiện để cộng đồng có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với chính quyền sở tại, nhất là tại các sự kiện do Cơ quan đại diện tổ chức.

          Củng cố, phát triển các hội đoàn chuyên gia, trí thức, doanh nhân người Việt Nam ở nước ngoài làm nòng cốt, dẫn dắt sự phát triển của cộng đồng ở sở tại. Thu hút nhóm người Việt Nam ở nước ngoài đã thành đạt ở sở tại tham gia trợ giúp nhóm còn yếu thế.

          Đẩy mạnh công tác dạy tiếng Việt, truyền thụ bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của Việt Nam cho các thế hệ thanh thiếu nhi Việt Nam ở nước ngoài, gắn kết thế hệ trẻ người Việt Nam ở nước ngoài với trong nước.

 

 

 

 

 

NVI41 - TÔN TRỌNG VÀ BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO

 

Để thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, các thế lực thù địch thường xuyên phát tán lên các trang mạng xã hội những thông tin sai lệch, xuyên tạc quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam. Điển hình, trên trang “Vietquoc”, bút danh Việt Nam Quốc dân Đảng có bài viết: “Việt Nam áp dụng mô hình đàn áp tôn giáo theo kiểu Trung Cộng”, cho rằng Việt Nam đang đàn áp tự do tôn giáo. Song thực tế, tình hình tôn giáo ở Việt Nam đã bác bỏ luận điệu sai trái này.

Thứ nhất, Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định, tín ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đã, đang và sẽ đồng hành cùng dân tộc. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của nhân dân. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 của Việt Nam, khẳng định: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo;…. Đồng thời, quy định nghiêm cấm phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo;…; lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi.

Thứ hai, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn tạo điều kiện hỗ trợ giúp đỡ các tôn giáo hoạt động và phát triển trong khuôn khổ pháp luật. Trong lịch sử dân tộc, chưa bao giờ các tôn giáo có điều kiện phát triển như hiện nay, chức sắc và tín đồ các tôn giáo đều được tự do sinh hoạt, tự do thực hành các lễ nghi tôn giáo, biểu hiện đức tin, được tạo điều kiện cho mở mang cơ sở vật chất, tu sửa nơi thờ tự, được mở các trường đào tạo những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu phát triển của giáo hội phù hợp với trình độ phát triển của xã hội; được Nhà nước tạo điều kiện cho mở rộng, phát triển các quan hệ giao lưu quốc tế, v.v. Ở Việt Nam, không có chuyện kỳ thị, phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo hay vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Thứ ba, báo cáo tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo giai đoạn 2012 - 2022 của Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam khẳng định: cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp hàng chục nghìn m2 đất để xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo, như: Thành phố Hồ Chí Minh cấp 7.500 m2, Đắk Lắk cấp 11.000 m2; Đà Nẵng cấp 9.000 m2. Tính đến hết năm 2022 chính quyền đã công nhận 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo khác nhau, với trên 26,7 triệu tín đồ, trên 55 nghìn chức sắc, khoảng 135 nghìn chức việc. Riêng trên địa bàn Tây Nguyên, năm 1975 chỉ có 50.000 người/200 thôn, làng theo đạo Tin lành, đến nay, đã là hơn 500.000 người/18.000 thôn, làng. Bên cạnh đó, việc học tập, đào tạo của các tôn giáo cũng được phát triển nhanh. Từ chỗ chỉ có 22 trường cao đẳng, trung cấp Phật học (năm 1993), đến nay, cả nước đã có 4 học viện Phật giáo và 49 trường cao đẳng, trung cấp, sơ cấp Phật học; Giáo hội Công giáo có 6 Đại Chủng viện với hàng nghìn chủng sinh,… không những thế, Nhà nước còn tạo điều kiện cho hàng trăm tu sĩ đi học tập, hội thảo nâng cao trình độ ở nước ngoài và nhiều người đã trở thành tiến sĩ Phật học. Việc in ấn, xuất bản kinh sách được Nhà nước quan tâm, hầu hết các tổ chức tôn giáo đều có báo, tạp chí, bản tin, đáp ứng yêu cầu hoạt động của các tôn giáo. Chỉ tính riêng Nhà xuất bản Tôn giáo, mỗi năm đã cấp phép xuất bản hơn 1.000 ấn phẩm liên quan đến tôn giáo. Hằng năm, có khoảng trên 8.000 nghìn lễ hội về tín ngưỡng, tôn giáo với hàng vạn tín đồ tham gia lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo được tổ chức ở các quy mô khác nhau trên phạm vi cả nước; trong đó, các sự kiện trọng đại của các tôn giáo đều được chính quyền các cấp tạo điều kiện tổ chức, hỗ trợ đảm bảo an toàn giao thông, an ninh trật tự, phòng chống cháy nổ,... để nhân dân được tự do hành lễ, thoả mãn nhu cầu đời sống tâm linh và được lãnh đạo Đảng, Nhà nước, địa phương quan tâm, động viên, chúc mừng. Chẳng hạn như Đại lễ Vesak của Phật giáo thế giới đã được tổ chức 3 lần ở Việt Nam với 1000 đại biểu quốc tế đến từ 120 quốc gia. Đối với công giáo, Hội nghị toàn thể lần thứ X Liên hội đồng Giám mục Á Châu đã được tổ chức tại Việt Nam. Ngoài ra, quan hệ đối ngoại của các tôn giáo cũng được Nhà nước tạo điều kiện và ngày càng mở rộng, nhất là quan hệ với các tổ chức tôn giáo ở khu vực Đông Nam Á, Tây Âu và Tòa thánh Va-ti-căng, góp phần hiện thực hoá chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng tốt hơn.

Ngày 11/10/2022, với 145 phiếu ủng hộ, Việt Nam là một trong 14 thành viên trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Đây là lần thứ hai Việt Nam trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Điều này, khẳng định uy tín và vị thế của Việt Nam trong thực hiện quyền tự do tôn giáo được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Đây cũng là minh chứng mà kẻ chống phá lấy bút danh Việt Nam Quốc dân Đảng và các thế lực thù địch không thể phủ nhận, xuyên tạc

NVI41 - TỈNH TÁO VỚI TÍNH HAI MẶT CỦA MẠNG XÃ HỘI

 

Ngày nay, internet và mạng xã hội đã trở nên phổ biến, mang lại nhiều giá trị tích cực cho công chúng và xã hội; là một trong những cách tốt nhất để giới thiệu bản thân đến tất cả mọi người, bày tỏ cảm xúc của bản thân, chia sẻ quan điểm cá nhân, gắn kết cộng đồng giúp thích nghi tốt hơn với sự thay đổi và vượt qua những áp lực và stress trong cuộc sống, tìm kiếm những cơ hội phát triển khả năng của mình, gặp gỡ và giao lưu với tất cả mọi người trên thế giới. Là kho thông tin phong phú giúp cho cá nhân dần cải thiện kỹ năng sống và trau dồi kiến thức và là kênh giải trí hữu hiệu.

Bên cạnh đó, mạng xã hội là một môi trường kinh doanh lí tưởng, đầy tiềm năng, giúp người sử dụng bán hàng online hay quảng cáo những sản phẩm của công ty, doanh nghiệp và tìm kiếm khách hàng tiềm năng. Nó không chỉ có hiệu ứng tích cực thúc đẩy đối với giáo dục đào tạo, mà còn tạo ra những giá trị mới, đem lại hiệu quả cho nền kinh tế, mà nổi bật nhất trong các lĩnh vực “marketing và quảng cáo”, “quản trị tri thức”, “vốn xã hội”, “quản trị mối quan hệ”, “thương mại điện tử”… Sức mạnh của mạng xã hội trong việc gia tăng bán hàng, là giảm chi phí marketing và tiếp cận khách hàng trực tiếp.

Mạng xã hội cũng là kênh chuyển tải thông tin nhanh chóng, cập nhật tin tức, kiến thức cho công chúng, là nguồn tin phong phú, đầu tiên và đa chiều; là nơi chia sẻ thông tin rộng rãi giúp chúng ta có nhiều cơ hội để khai thác thông tin thuận lợi.

Tuy nhiên,mạng xã hội được ví như con dao 2 lưỡi ẩn chứa nhiều vấn đề bất cập và hiểm họa khó lường đối với người sử dụng không đúng mục đích. Thực tế, bên cạnh các thông tin bổ ích, có giá trị đối với xã hội thì còn vô số thông tin, hình ảnh có nội dung xấu, bịa đặt, bóp méo sự thật, xuyên tạc vấn đề, “đổi trắng, thay đen”, làm lẫn lộn đúng sai, thật giả; hoặc có một phần sự thật nhưng được đưa tin với dụng ý xấu, phân tích và định hướng dư luận bằng luận điệu sai trái, thù địch. Một số thông tin chưa được kiểm chứng, thông tin sai sự thật gây ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức; một số thông tin có những ngôn từ thô tục nội dung phản cảm, thậm chí soi mói, bình phẩm chủ quan chuyện đời tư của người khác, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhiều cá nhân, gây bức xúc trong dư luận xã hội; vi phạm chuẩn mực đạo đức, văn hóa, thuần phong mỹ tục; kích động đồi trụy, bạo lực, bôi nhọ đời tư, vu khống…; Khá nhiều người lựa chọn mạng xã hội là nơi để bày tỏ quan điểm của cá nhân mình về người khác, nói xấu, công kích, miệt thị, người khác, thậm chí đưa thông tin sai lệch để vùi dập. Thông tin sai trái, độc hại có tính chất tội phạm như: Lừa đảo trên mạng, đánh cắp thông tin, mật khẩu, tán phát vi-rút…Bên cạnh đó có thông tin sai trái như: xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống phá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới, bịa đặt, vu cáo, nói xấu các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, gây chia rẽ đoàn kết nội bộ, tìm mọi cách thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ củ chúng ta.

Tác hại của những thông tin xấu độc trên mạng xã hội do các thế lực có tư tưởng, quan điểm không lành mạnh đưa ra có tác động tiêu cực đến tình hình tư tưởng, dư luận xã hội, gây nghi ngờ, gieo rắc sự hoang mang, dao động, làm giảm sút lòng tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Hệ lụy của thông tin xấu độc ảnh hưởng rất lớn đến đạo đức, lối sống, nhân cách của cá nhân và cộng đồng xã hội. Nếu đạo đức xã hội bị băng hoại, văn hóa dân tộc bị tầm thường hóa, đánh mất bản sắc, an toàn xã hội bị đổ vỡ, thì sẽ tác động mạnh đến chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng; có nguy cơ dẫn đến mất phương hướng lựa chọn các giá trị, lối sống và niềm tin của một bộ phận không nhỏ của tầng lớp nhân dân, đặc biệt là giới trẻ - đối tượng thường xuyên tiếp cận với mạng xã hội.

Để chủ động ngăn chặn, đẩy lùi thông tin xấu độc trên mạng xã hội, đòi hỏi trước hết mỗi người dân tham gia mạng xã hội, nhận biết tính hai mặt của nó; nhận diện các thủ đoạn, nội dung thông tin xấu độc, tính chất nguy hại đối với cá nhân và xã hội; các cơ quan, ban ngành, đơn vị cần tiếp tục chủ động, kịp thời cung cấp thông tin một cách đầy đủ, toàn diện cho mọi người. Qua đó, trang bị kiến thức cần thiết để mỗi người có thể tự sàng lọc, tiếp nhận thông tin hữu ích, chính thống; miễn dịch với những thông tin xấu độc làm nhiễu loạn môi trường xã hội.

Hai là, các tổ chức Đảng phải đóng vai trò tiên phong, nòng cốt trong đấu tranh, phản bác các thông tin, quan điểm sai trái. Cấp ủy đảng các cấp phải làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên trong đảng bộ. Thông qua sinh hoạt của tổ chức đảng, cấp ủy chủ động cung cấp thông tin, giải tỏa dư luận đối với những luồng thông tin trái chiều, bịa đặt trên mạng xã hội; đấu tranh phê phán những biểu hiện dao động, mơ hồ hoặc phụ họa theo những thông tin, quan điểm sai trái. Thực hiện phương châm “mỗi đảng viên là một tuyên truyền viên của Đảng”, cán bộ, đảng viên phải là người trực tiếp tuyên truyền cho gia đình và quần chúng nhân dân nơi cư trú, làm rõ bản chất sai trái, tính chất nguy hiểm của các thông tin sai trái, bịa đặt. Từ đó định hướng dư luận theo hướng tích cực, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, hình thành sức “tự đề kháng” của quần chúng trước các thông tin sai trái, luận điệu xuyên tạc.

Ba là, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, nhất là các tổ chức đoàn thể trong đấu tranh phản bác các thông tin xấu độc trên mạng xã hội.

Nếu chỉ dựa vào lực lượng chuyên trách thì không thể giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh này. Do đó phải huy động toàn xã hội, toàn dân tham gia cuộc đấu tranh này; khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức cảnh giác cách mạng, ý thức tự giác, thành hành động tích cực trong phê phán, đấu tranh chống quan điểm sai trái. Tổ chức lực lượng trong các cơ quan chính quyền, cơ quan quân đội, công an các cấp và trong các tổ chức chính trị, xã hội… thực hiện thường xuyên nhiệm vụ đấu tranh chống quan điểm sai trái trên mạng internet. Tổ chức các lực lượng kịp thời ngăn chặn không để các quan điểm sai trái phát tán trên mạng internet có điều kiện tác động vào các tầng lớp nhân dân. Tổ chức đấu tranh trực diện đối với những người cơ hội, lệch lạc về chính trị ngay từ cơ sở. Chú trọng việc tổ chức để các đoàn thể quần chúng như đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp… tham gia đấu tranh trên mạng internet đối với các quan điểm và hành động sai trái của các phần tử cơ hội chính trị và các thế lực thù địch.

Bốn là, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện Cuộc vận động phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” trong các đơn vị Quân đội, tạo sự chuyển biến rõ nét về nhân cách quân nhân theo các chuẩn mực “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới; chú trọng xây dựng nhân rộng điển hình tiên tiến; gắn việc thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII).

Sự phát triển của Internet và các trnag mạng xã hội là thành tựu của nhân loại và trở thành một trong những nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội, mang lại những tiện ích nhiều mặt cho con người trên toàn cầu, thúc đẩy sự phát triển xã hội trên nhiều lĩnh vực, đó là điều chúng ta không thể phủ nhận. Tuy nhiên, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng thành tựu đó để mang lại những tác hại không hề nhỏ. Nếu những người sử dụng mạng xã hội không vững vàng trong nhận thức, thiếu nhãn quan chính trị đúng đắn, thiếu thông tin chính thống, khi tiếp xúc với những quan điểm sai trái, thù địch sẽ có những suy nghĩ lệch lạc, dẫn đến mơ hồ, mất niềm tin. Nhận diện và đấu tranh với những chiêu trò bôi xấu, vụ lợi trên mạng mạng xã hội là việc làm cần thiết đối với mỗi cán bộ, công nhân viên, chiến sĩ trong quân đội./.

NVD41 - QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

 

Để giải quyết những vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc tổng kết lịch sử. Khi tổng kết lịch sử dân tộc Việt Nam, Người đúc rút một quy luật: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi”. Đây là quan điểm rất quan trọng, mang tính nền tảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, theo đó, việc lực lượng lãnh đạo cách mạng chú trọng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, việc các tầng lớp nhân dân tích cực, chủ động tham gia khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đó chính là nhận thức và hành động đúng đắn, phù hợp với quy luật.

Nhìn vào các phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân Việt Nam suốt nửa cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX và phong trào đấu tranh của nhân dân nhiều nước thuộc địa chống lại chủ nghĩa thực dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ, nguyên nhân khiến cho hầu hết các phong trào đó, dù nổ ra với tinh thần anh dũng, sẵn sàng hy sinh của nhân dân, nhưng đều thất bại, là do bị chia rẽ và cô lập, các lực lượng yêu nước không được tập hợp và tổ chức lại thành một khối đoàn kết vững chắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành thời gian nghiên cứu kinh nghiệm các cuộc cách mạng lớn nổ ra trên thế giới như cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ và cách mạng Nga, từ đó đúc rút ra những chỉ dẫn quan trọng về đại đoàn kết dân tộc. Người còn đi sâu nghiên cứu nhiều tư tưởng, học thuyết của các nhà lãnh đạo chính trị tầm cỡ, như M. Gan-di, Tôn Trung Sơn..., và đặc biệt, đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhờ vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có được cơ sở lý luận khoa học để luận giải sâu sắc về tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc, nhận thức đúng đối tượng đại đoàn kết và cách thức tiến hành đại đoàn kết dân tộc.

Trên tất cả những cơ sở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của đại đoàn kết dân tộc:

Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc là một trong những vấn đề gốc của cách mạng. Nếu giải quyết thành công vấn đề này thì các vấn đề khác cũng sẽ có điều kiện để giải quyết thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng từ “điểm mẹ” để diễn đạt quan điểm này. Người viết: Đoàn kết là “điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”.

Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc là phương thức để tập hợp, tổ chức và phát huy cao độ sức mạnh của toàn thể dân tộc, góp phần quyết định đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “... nhờ sức đại đoàn kết mà cách mệnh thành công... nhờ sức đại đoàn kết mà kháng chiến sẽ thắng lợi”; “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta. Đại đoàn kết là một lực lượng tất thắng. Nhờ đại đoàn kết mà cách mạng đã thắng lợi, kháng chiến đã thành công. Nay chúng ta đại đoàn kết thì cuộc đấu tranh chính trị của chúng ta nhất định thắng lợi, nước nhà nhất định thống nhất”.

Thứ ba, đại đoàn kết dân tộc là chiến lược hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong bất cứ giai đoạn nào của cách mạng, đại đoàn kết dân tộc luôn phải được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm giải quyết trước hết. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, “Trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”. Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng đường lối, chiến lược đại đoàn kết dân tộc và lãnh đạo hệ thống chính trị cùng toàn thể nhân dân tích cực thực hiện đường lối chiến lược đó, làm cho đại đoàn kết dân tộc trở thành một hiện thực đầy sức sống trong cách mạng Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng. Trong bối cảnh hiện nay, trước thực tiễn biến đổi của tình hình thế giới và trong nước trên các lĩnh vực; phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc và kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một trong những vấn đề hệ trọng được quan tâm hàng đầu trong công tác lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

NVC41 - Một số vấn đề về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

 

Trước đây, theo tư duy của mô hình nhà nước tập quyền XHCN, thì quyền lực nhà nước tuy thuộc về nhân dân, nhưng nhân dân chỉ thực hiện quyền lực nhà nước của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Toàn bộ quyền lực nhà nước tập trung vào Quốc hội; không có sự phân công thành các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mô hình tổ chức quyền lực nhà nước này phù hợp với điều kiện chiến tranh và nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp, với ưu điểm bảo đảm cho nhà nước ban hành quyết định nhanh chóng và thống nhất. Tuy nhiên, mô hình này trong điều kiện mới - điều kiện kinh tế thị trường nhiều thành phần - bộc lộ nhiều hạn chế.

Do vậy, trong điều kiện mới, mô hình nhà nước tập quyền XHCN không còn phù hợp với việc phát huy đầy đủ vai trò của quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; tiềm ẩn nguy cơ lạm quyền, lộng quyền, quan liêu, tham nhũng trong việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước.

Nhận rõ những hạn chế của mô hình tập quyền XHCN, tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng, lần đầu khẳng định trong văn kiện của mình chủ trương “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân”. Với nguyên tắc mới: Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp với sự phân công rành mạch ba quyền. Theo đó, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trở thành nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước, có tầm chiến lược, bao gồm toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; trở thành định hướng cho quá trình cải cách bộ máy nhà nước trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nội dung chủ yếu của nhiệm vụ này là: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng ta lãnh đạo”. Để thực hiện nhiệm vụ này, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khóa VII) chuyên đề bàn về vấn đề nhà nước đã ra Nghị quyết: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính".

Để thực hiện chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN với những tổng kết bước đầu cả về nhận thức lẫn thực tiễn, năm 2001, Quốc hội đã tiến hành sửa đổi một số điều về tổ chức bộ máy nhà nước của Hiến pháp năm 1992. Điểm nổi bật trong lần sửa đổi này là thể chế hóa các tư tưởng chỉ đạo của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi một số điều năm 2001) khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Tiếp theo là tại các Đại hội lần thứ X và XI của Đảng - các đại hội có bước phát triển về chất trong nhận thức và vận dụng chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Tại Đại hội X, trong mục tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN đã đề cập tới vấn đề: “Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền” trong đó đã đề cập sâu về vấn đề “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Đây chính là nhận thức, quan điểm mới về sự cần thiết phải kiểm soát quyền lực nhà nước trong chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng ta. Theo đó, tại Đại hội XI của Đảng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung và phát triển năm 2011) đã bổ sung một yếu tố mới vào nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Đó là yếu tố kiểm soát quyền lực nhà nước. Lần đầu trong Văn kiện của Đảng ta đã ghi nhận một nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN, chứa đựng đầy đủ các giá trị mới về chất so với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong nhà nước tập quyền XHCN trước đây. Đó là nguyên tắc: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Thể chế hóa các quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong gần 30 năm của Đảng ta, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 tuyên bố:

“1. Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;

2. Nước CHXHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức;

3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Trên phương diện thực tiễn, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đạt nhiều thành tựu quan trọng. Hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước cơ bản, bảo đảm yêu cầu quản lý, ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao có nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu quả được nâng cao. Vai trò, quyền làm chủ của nhân dân được củng cố, phát huy, bảo đảm và lan tỏa tinh thần tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, cơ chế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở dựa trên phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bộ máy nhà nước bước đầu được sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực. Trong đó, vai trò, trách nhiệm của đại biểu dân cử thể hiện rõ hơn, hiệu quả hơn. Hoạt động cơ quan hành pháp chủ động, tích cực, tập trung vào quản lý, điều hành, tháo gỡ rào cản, phục vụ, hỗ trợ phát triển. Cải cách hành chính, tư pháp có bước đột phá; chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức và cá nhân; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Những kết quả này được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”

Như vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là chủ trương đúng đắn, nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta và được khẳng định qua các kỳ Đại hội, được cụ thể hóa bằng pháp luật và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước”

NVB41 - NGĂN NGỪA HIỆN TƯỢNG DỰA DẪM, Ỷ LẠI, THIẾU TRÁCH NHIỆM

 

Lâu nay, cùng với biểu hiện né, sợ trách nhiệm trong công tác, một số ít cán bộ, đảng viên các cơ quan, đơn vị, địa phương rơi vào tình trạng dựa dẫm, ỷ lại, thiếu trách nhiệm, đùn đẩy trách nhiệm.

Hiện tượng này cùng với những thói hư tật xấu khác đã làm giảm hiệu suất, chậm tiến độ triển khai công việc. Đấu tranh ngăn chặn hiện tượng này cũng là cách để ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Dựa dẫm, ỷ lại được hiểu là thái độ thiếu chủ động của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ và công việc được giao, khiến cho hiệu quả công việc không được bảo đảm đúng mục đích, yêu cầu, thời gian và kết quả. Những người có thói quen dựa dẫm, ỷ lại, thiếu trách nhiệm thường có các biểu hiện ít thổ lộ ý tưởng thông qua lời nói, việc làm; họ không dám phản biện, phê bình mà thay vào đó là thói quen chờ lệnh, chỉ đâu đánh đó. Ở bình diện tổ chức, đó là các biểu hiện nghe ngóng, trông chờ vào chỉ đạo từ cấp trên, không dám làm, không dám đi trước mở đường.

Từ góc độ khách quan, những người quen dựa dẫm, ỷ lại, thiếu trách nhiệm cũng thường có suy nghĩ và thói quen "nước đến chân mới nhảy" hoặc khéo léo đẩy trách nhiệm xử lý công việc sang người khác, bộ phận khác. Cụ thể là trong công việc, nếu thấy khó thì không chủ động tháo gỡ hoặc đề xuất giải pháp mà thường đợi xin ý kiến lãnh đạo, chờ cho lãnh đạo cấp trên quyết định mới triển khai. Biểu hiện dựa dẫm, ỷ lại, thiếu trách nhiệm thường rơi vào những cán bộ chưa có nhiều kinh nghiệm và cũng có thể là những cán bộ có thâm niên nhưng luôn có tâm lý dựa vào cấp trên.

Đặc trưng nổi bật nhất trong các cơ quan, đơn vị, địa phương là tổ chức hoạt động thống nhất theo kế hoạch đã xây dựng hằng tháng, quý, năm... Trên cơ sở này, các cơ quan, đơn vị, địa phương phân công cán bộ, đảng viên phụ trách từng mảng, lĩnh vực, từng khâu để tổ chức thực hiện, đồng thời bảo đảm cho công việc ấy các điều kiện thực hiện, như kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện theo định mức... Quá trình thực hiện, tùy vào tính chất, mức độ và quy mô khác nhau, nhưng thường thì công việc luôn có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức, đơn vị khác, không chỉ trong nội bộ mà cả các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân bên ngoài, gồm cả doanh nghiệp và công dân.

Những cán bộ, công chức, viên chức dựa dẫm, ỷ lại, thiếu trách nhiệm thường vin vào các điều kiện không được bảo đảm đầy đủ hoặc đổ lỗi cho nguyên nhân phát sinh, do cơ quan, đơn vị bạn và lực lượng phối hợp chưa triển khai hoặc triển khai chậm để biện minh cho chất lượng, tiến độ công việc. Biểu hiện dễ nhận thấy là tình trạng phát hành công văn xin ý kiến các nơi, trong đó có cả những cơ quan, đơn vị không liên quan nhiều đến công việc đang thực hiện. Hiện tượng này đã làm giảm đi tính kịp thời và hiệu quả trong triển khai công việc. Có thể kể tới tình trạng chờ cấp trên chỉ đạo, sợ sai không dám tổ chức đấu thầu, mua sắm thuốc, vật tư và trang thiết bị y tế... trong thời gian qua. Trước đó, dư luận bức xúc về tình trạng đùn đẩy các vụ việc lên Chính phủ giải quyết. Trong kỳ họp Quốc hội, nhiều đại biểu đã nêu thực trạng, tình trạng cán bộ đùn đẩy nhiệm vụ giữa các bộ phận khiến nhiều công việc bị đình trệ, người dân và doanh nghiệp gặp khó khăn. Không ít dự án, công trình đầu tư bị kéo dài tiến độ hoặc bị ngưng trệ chỉ vì chậm được duyệt, cấp phép và triển khai… Trong lĩnh vực đầu tư công, nhiều công trình trọng điểm bị chậm tiến độ, tốc độ giải ngân tại một số địa phương, bộ, ngành còn thấp…

Hiện tượng dựa dẫm, ỷ lại, thiếu trách nhiệm tưởng đơn giản, nhưng hậu quả gây ra thì rất lớn, nó chính là căn nguyên sinh ra những thói hư, tật xấu... Trong Kết luận số 21-KL/TƯ ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đã chỉ rõ một trong những nguyên nhân chủ yếu của hạn chế, khuyết điểm là do một số cấp ủy, tổ chức Đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu chưa quyết tâm và thiếu biện pháp chỉ đạo đủ mạnh, còn thụ động, trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên…

Để triệt tiêu thói dựa dẫm, ỷ lại và thiếu trách nhiệm thì cần nhiều giải pháp, từ tổng thể đến các giải pháp thành phần. Một trong những giải pháp căn cơ đó là phải phân loại, đánh giá cán bộ, đảng viên sát thực bằng chất lượng, hiệu quả công việc.

Các cơ quan, đơn vị, địa phương cần căn cứ vào Quy chế làm việc của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 39/2022/NĐ-CP ngày 18-6-2022, đặc biệt là căn cứ vào quy chế làm việc của cấp ủy tổ chức Đảng, cơ quan, đơn vị và thực tế công việc để phân công công việc theo phương châm "5 rõ" (rõ người, rõ việc, rõ quy trình, rõ trách nhiệm và rõ hiệu quả). Khi đã giao việc, các cán bộ phụ trách phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, kiên quyết chỉ ra những yếu kém trong tổ chức, phối hợp thực hiện giữa các bộ phận, các thành phần. Kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý những trường hợp chậm tham gia ý kiến hoặc tham gia ý kiến nhưng không có chính kiến, quan điểm rõ ràng, kéo dài thời gian xử lý, ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng, hiệu quả công việc.

Dựa dẫm, ỷ lại, thiếu trách nhiệm là một thói xấu, biểu hiện của thái độ thực thi công vụ thiếu chuyên nghiệp. Thói xấu ấy cần phải được loại bỏ ngay để bảo đảm hiệu suất và chất lượng công việc.


 

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...