Công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng gần 40 năm, đất nước ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi
mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện
thực hoá. Nhưng, cùng với cố tình phủ nhận thành tựu, kết quả mà Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta đạt được, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ở
trong nước và ở nước ngoài cố tình xuyên tạc tình hình nhân quyền Việt Nam, ra
sức chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa dưới chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”.
Hiện
nay, các đối tượng thù địch tập trung xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ,
nhân quyền ở Việt Nam hiện nay gồm: lực lượng cực hữu, một số nghị sĩ cực đoan
tại một số nước phương Tây, các nhóm phản động người Việt Nam ở nước ngoài và
những cá nhân người Việt ở trong nước bị các thế lực cực hữu nước ngoài mua
chuộc, lợi dụng, núp bóng “ngọn cờ dân chủ”, “nhân quyền” chống phá nền tảng tư
tưởng và chế độ chính trị - xã hội tại Việt Nam. Một số tổ chức phi chính phủ
quốc tế, như Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW), Tổ chức Ân xá quốc tế (AI), Tổ
chức Phóng viên không biên giới (RSF), Tổ chức Ngôi nhà Tự do (FH)... thường
xuyên vu cáo, xuyên tạc tình hình nhân quyền Việt Nam, bằng việc ra bản phúc
trình hằng năm về nhân quyền. Vậy khi tiếp cận những vấn đề này chúng ta cần
quan tâm đến một số chú ý như sau để không bị suy nghĩ lệch lạc:
Khi xem xét, nhận diện, đánh giá phải sâu sắc, toàn diện âm mưu,
thủ đoạn và xác định rõ bản chất của các luận điệu xuyên tạc, nền tảng, mục
tiêu, phương thức, chủ trương, công cụ chống phá của các thế lực thù địch.
Về bản chất, các luận điệu đó phản ánh cuộc đấu tranh về tư tưởng
chính trị - pháp lý giữa giá trị tư tưởng XHCN và tư sản trên lĩnh vực dân chủ
và nhân quyền. Đây là đặc điểm có tính bản chất chi phối trong cuộc đấu tranh
này, không chỉ hiện hữu ở những đối tượng phân định rõ thành chiến tuyến địch -
ta, mà còn nằm ngay trong nhận thức của mỗi người và mỗi tổ chức. Vì thế, các
tầng lớp nhân dân, trước tiên là mỗi cán bộ, đảng viên đều là chủ thể đấu tranh
với các thế lực thù địch trên lĩnh vực này. Trong phương thức đối thoại, đấu
tranh cần coi trọng biện pháp tư tưởng chính trị, như tuyên truyền, vận động
nhằm nâng cao nhận thức, tích cực phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
và coi trọng cách thức kết hợp đối thoại với đấu tranh và ngược lại.
Về nền tảng tư tưởng: Là hệ tư tưởng tư sản với nội dung cơ bản
là quan niệm một cách phiến diện, có khi tuyệt đối hóa quyền cá nhân và các
quyền dân sự, chính trị đến mức đồng nhất chúng với quyền con người nói chung;
coi nhẹ quyền của tập thể, của dân tộc và chủ quyền quốc gia; coi nhẹ tính bình
đẳng của các chủ thể quyền và các nội dung quyền, nhất là các quyền kinh tế, xã
hội, văn hóa vốn chiếm vị trí cơ bản và là yêu cầu có tính bức thiết đối với
các nước đang phát triển như Việt Nam. Về mặt chính trị, đây là biểu hiện của
chủ nghĩa đế quốc về văn hóa, coi tư tưởng nhân quyền phương Tây mang tính phổ
quát toàn nhân loại, thậm chí cao hơn chủ quyền quốc
gia.
Về mục tiêu và phương thức hoạt động: Tuyên truyền xuyên tạc,
phủ nhận các giá trị lý luận - thực tiễn về dân chủ, nhân quyền để chống phá
nền tảng tư tưởng XHCN ở Việt Nam. Tiến hành các hoạt động chống phá thực tiễn
bảo đảm dân chủ, nhân quyền trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, tôn giáo, dân
tộc, thông tin, báo chí, truyền thông, giáo dục - đào tạo, văn hóa - nghệ
thuật, tư pháp, ... kể cả hợp tác quốc tế, nhằm thúc đẩy sự chệch
hướng XHCN của công cuộc đổi mới ở nước ta. Tuyên truyền, ca ngợi các giá trị
của nhân quyền tư sản nhằm kích động, cổ vũ việc phân hóa, chuyển hóa tư tưởng
chính trị XHCN đồng thời thúc đẩy “tự diễn biến, “tự chuyển hóa” sang tư tưởng
nhân quyền tư sản - mà hiện nay thường được gọi là “giá trị phương Tây” -
trước tiên trong nội bộ Đảng, Nhà nước.
Về chủ trương chống phá: Lấy chống phá về chính
trị, tư tưởng làm khâu đột phá; lấy mua chuộc kinh tế làm mũi nhọn; lợi dụng
vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo làm ngòi nổ; dùng ngoại giao, đầu
tư kinh tế để hỗ trợ, hậu thuẫn.
Về công cụ chống phá: Các thế lực thù địch sử dụng truyền thông
đại chúng, đặc biệt là in-tơ-nét, xuất bản, báo chí ở nước ngoài, sản xuất
băng, đĩa hình chuyển về trong nước; tài trợ cho một số cơ quan báo chí nước ngoài
chuyên chống phá Việt Nam để xuyên tạc, kích động về tư tưởng, chính trị.
Họ lợi dụng một số sai sót trong hoạt động quản lý của Nhà nước để xuyên tạc,
kích động khiếu kiện, biểu tình trái phép. Họ tổ chức các hội thảo để xem xét
lại các vấn đề liên quan đến lịch sử, tuy âm thầm nhưng tác hại lâu dài thực sự
rất thâm độc. Các thế lực thù địch dùng chiêu bài “mớm lời”, “rắc thính”, kích
động để gây tâm lý hoang mang, hoài nghi, suy thoái về tư tưởng, chính trị
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Phải vạch rõ tính hạn chế và mâu thuẫn của các luận điệu xuyên
tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Các luận điệu xuyên tạc,
phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở trong nước thường nhại lại những
luận điệu của một số tổ chức quốc tế và một số nước phương Tây. Các luận điệu
đó, như “Phúc trình Toàn cầu 2021” của HRW có hạn chế lớn là dựa trên những
thông tin được thu thập theo kiểu cóp nhặt, cắt xén rời rạc, nghiên cứu không
sâu nên phiến diện và xuyên tạc. Tính vô lý và mâu thuẫn của các luận điệu này
là xuất phát từ ý thức hệ chính trị phương Tây, “coi nhân quyền cao hơn chủ
quyền” và bị chi phối bởi nguồn kinh phí hoạt động của những cá nhân, tổ chức
dân sự nước ngoài không thiện chí với Việt Nam và theo cơ chế thị trường, nên
chúng mang màu sắc chính trị thực dụng, vụ lợi, nhiều khi chống đối công khai,
trắng trợn và quyết liệt. Vì thế, chúng dễ gây ra phản ứng tiêu cực trong dư
luận Việt Nam và cả thế giới.
Các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền
ở Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng điều ước và nguyên tắc quốc tế về cấm can
thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác.
Cụ
thể là vi phạm nghiêm trọng công ước và nguyên tắc quốc tế về cấm can thiệp vào
công việc nội bộ của các quốc gia khác theo Điều 2, Hiến chương Liên hợp
quốc năm 1945 và Nghị quyết số 2625 năm 1970 của Đại hội đồng Liên
hợp quốc cũng như trong nhiều điều ước quốc tế về nhân quyền. Theo Nghị quyết
số 2625: Không quốc gia nào hay nhóm quốc gia nào có quyền can thiệp, trực
tiếp hay gián tiếp, vì bất kỳ lý do gì vào công việc đối nội và đối ngoại của
bất kỳ quốc gia nào khác. Can thiệp vũ trang và tất cả các hình thức can thiệp
hay đe dọa chống lại tư cách của quốc gia hay chống lại các đặc trưng chính
trị, kinh tế và văn hóa của quốc gia đó - đều là vi phạm luật pháp quốc tế.
Mâu
thuẫn nội tại của các luận điệu đó là nhân danh nhân quyền phổ quát nhưng lại
không tuân theo nguyên tắc điều chỉnh của luật nhân quyền quốc tế đối với chủ
quyền quốc gia và trách nhiệm quốc gia. Chẳng hạn, theo Điều 1 của hai công ước
quốc tế năm 1966 về các quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa
cũng như theo “Tuyên bố về các nguyên tắc của luật quốc tế, điều chỉnh quan hệ
hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc”
(năm 1970) như: Tôn trọng chủ quyền quốc gia về lựa chọn chế độ chính trị, kinh
tế, xã hội và chính sách đối ngoại; sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi
quốc gia; bình đẳng chủ quyền của các quốc gia và quyền tự quyết của các dân
tộc; không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác; giải quyết các
tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình; các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác
với nhau;....
Xuất
phát từ những nguyên tắc đó, Nhà nước Việt Nam, trong nhiều văn bản quy phạm
pháp luật, quy định rõ các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước
ngoài, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam và thành viên của
những cơ quan đó phải tôn trọng pháp luật và phong tục, tập quán của Việt Nam;
không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam và Nhà nước Việt Nam cũng
luôn và không ngừng hành xử như vậy trong quan hệ quốc tế cả quan hệ song
phương và đa phương.
Một
yêu cầu pháp lý cơ bản của các nguyên tắc này của Liên hợp quốc là các nước,
các tổ chức quốc tế có nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền lãnh thổ và toàn vẹn chính
trị của một quốc gia. Thế nhưng, chẳng hạn trong bản “Phúc trình nhân quyền năm
2021”, HRW vẫn cáo buộc vô căn cứ về cái gọi là “Việt Nam lo sợ dân chủ, truyền
thông độc lập và các quyền tự do”. Thực tế qua những phiên tòa xét xử công khai
đối với Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy hay Phạm Chí Thành, Trần Đức Thạch thì
họ đều là những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật cụ thể và việc cơ quan
chức năng thi hành lệnh khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử công khai là việc
làm cần thiết của một quốc gia có chủ quyền, nhằm ngăn chặn những hành vi nguy
hiểm của họ gây ra đối với xã hội. Tại tòa án, những người này đều thừa nhận
các kết luận của hội đồng xét xử về những tội danh của mình. Vậy mà tổ chức này
vẫn tiếp tục bao che, dung túng cho những kẻ lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí, sử dụng mạng xã hội vi phạm an ninh con người, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, cổ xúy tuyên truyền cho những hành động chống phá đất
nước và con người Việt Nam.
Các luận điệu xuyên tạc, phủ
nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền không phản ánh đúng thực tế khách quan về
tình hình nhân quyền của Việt Nam.
Nguyên
nhân cơ bản của hạn chế và mâu thuẫn trong các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận
thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam là nhân danh nhân quyền phổ quát
toàn cầu với cách tiếp cận mang đẫm màu sắc ý thức hệ chính trị của phương Tây
cùng hành động thực dụng và động cơ chống đối công cuộc đổi mới ở nước ta. Trái
với những luận điệu cáo buộc ngụy biện, trơ trẽn đó, thực tế Việt Nam đã và
đang chứng thực sinh động sự tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy dân chủ,
nhân quyền trong điều kiện tác động của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.
Trong năm 2020, 2021 ngay trong khi đại dịch COVID-19 hoành hành trên thế giới
và ở Việt Nam, hàng loạt chính sách an ninh con người, an sinh xã hội được
Chính phủ Việt Nam ban hành nhằm bảo đảm an ninh lương thực và ổn định cuộc
sống tối thiểu cho người dân, đặc biệt là người nghèo.
Đồng
thời, Việt Nam chủ động, tích cực đóng góp vào việc tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy
quyền con người trên thế giới và được cộng đồng thế giới ghi nhận, ví dụ: Thông
qua mức độ tín nhiệm với tỷ lệ phiếu đồng thuận rất cao những lần Việt Nam ứng
cử và trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và Ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Tại khu vực, uy tín của Việt Nam được thể hiện
qua vai trò Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) 2020, đồng thời
là Chủ tịch Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR).
Việt
Nam không chỉ quan tâm thúc đẩy các quyền cơ bản của người dân ASEAN, đặc biệt
chú trọng đến nhóm yếu thế, như thúc đẩy quyền của phụ nữ, trẻ em, người khuyết
tật, gắn kết tình hữu nghị, thống nhất, tạo đồng thuận và hợp tác trong AICHR,
trong đó đặc biệt là nỗ lực bảo đảm quyền con người trong đại dịch (COVID-19)
được cộng đồng các quốc gia ASEAN đánh giá cao, mà còn tham gia đóng góp tích
cực vào định hình các chuẩn mực quốc tế về bảo đảm quyền con người, đặc biệt
quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, trong đó Việt Nam đã cùng với Phi-líp-pin
và Băng-la-đét trực tiếp soạn thảo Nghị quyết của Hội đồng Nhân quyền về biến
đổi khí hậu và quyền con người đã được chính thức thông qua vào tháng 7-2019
tại trụ sở Liên hợp quốc ở Giơ-ne-vơ, Thụy Sỹ.
bài viết rất hay
Trả lờiXóa