Hiến pháp năm 2013 thừa nhận quyền tự do ngôn luận của công dân, khi thực hiện quyền này đang nảy sinh suy nghĩ nhận thức ở một số người cho rằng: tự do ngôn luận là được tự do nói năng, phát ngôn, bình luận chia sẻ, phát tán thông tin mà không chịu bất cứ trách nhiệm hay ngăn cản nào, thậm chí đó là những phát ngôn xuyên tạc sự thật, thông tin sai lệch, bình luận thiên lệch, phiến diện tùy tiện... nếu ai hạn chế quyền nói năng, bình luận, phát tán thông tin của người khác là vi phạm quyền tự do ngôn luận của công dân, vậy bản chất của vấn đề ở đây là gì, thực chất nhận thức như vậy là phiến diện và không chính xác nếu không muốn nói là sai lầm, chúng ta biết rằng trên thực tế không bao giờ có quyền tự do tuyệt đối cả, mà nó còn bị giới hạn bởi các yếu tố như luật pháp, phong tục tập quán, đạo đức xã hội. Nếu để tự do tuyệt đối nghĩa là tự do vô chính phủ, tự do kiểu hoang dã, ai cũng nói năng, phát ngôn bừa bãi, xuyên tạc sự thật, bịa đặt, chia sẻ thông tin không kiểm chứng, bất chấp đúng sai sẽ dẫn đến tình trạng mất kiểm soát, gây rối loạn xã hội, nhiễu loạn thông tin, có thể tạo ra khủng hoảng thông tin xã hội, dẫn đến bất ổn định an ninh trật tự xã hội
Cần nhận thức rằng, tự do
ngôn luận hoàn toàn khác về chất với ngôn luận tự do, thực tiễn chỉ ra rằng để
đảm bảo quyền tự do ngôn luận một cách chính đáng cho công dân, cần thiết phải
có những khuôn khổ pháp lý nhất định để vừa đảm bảo thực hiện quyền tự do ngôn
luận, vừa để phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý những hành vi lợi dụng tự do ngôn
luận để xuyên tạc sự thật, tung tin giả, phao đồn tin nhảm, bịa đặt gây hoang
mang dư luận, và hoang mang trong dân chúng, bởi tự do ngôn luận khác với ngôn
luận tự do nên Liên Hợp Quốc cũng lưu ý trong Hiến chương của mình rằng: “Trong
khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu giới hạn do luật pháp
đặt ra, nhằm đảm bảo những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và
tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc
chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn” (điều 29 Tuyên ngôn quốc tế
về nhân quyền năm 1948). Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 của nước
Pháp tại điều 11 cũng biểu đạt: “Tự do trao đổi suy nghĩ, và ý kiến là một
trong nững quyền quý giá nhất của con người. Vì thế bất cứ công dân nào cũng có
thể nói, viết và công bố tự do, tuy nhiên họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng
quyền tự do này theo quy định của pháp luật”. Hiến pháp nước ta khẳng định
quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo chí… của công dân, nhưng cũng
quy định “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25 hiến
pháp 2013).
Như vậy ta thấy rằng quyền phải đi liền với trách nhiệm,
con người muốn tự do phải hiểu rõ nghĩa vụ, bổn phận của mình trước pháp luật,
trước xã hội, mình được làm gì, và không được làm gì, quyền tự do ngôn luận
cũng phải nằm trong khuôn khổ như vậy.
Thời gian qua cả nước không chỉ đối mặt với đại dịch Covid mà còn là bão lũ
nghiêm trọng, Đảng, nhà nước và nhân dân đã và đang xử lý có hiệu quả việc phòng
chống đại dịch, chống và khắc phục sự tàn phá của bão lũ, thành công của chúng
ta trong phòng chống dịch bệnh và thiên tai được cộng đồng quốc tế ghi nhận và
đánh giá cao, thành công đó ngoài những hành động cụ thể thiết thực và kịp
thời, còn là việc làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, tạo sự đồng thuận
cao trong xã hội. Tuy nhiên vẫn có những người cố tình lợi dụng quyền tự do
ngôn luận để phát tán thông tin sai sự thật, bịa đặt, xuyên tạc sự thật, bình
luận không trung thực, thiếu khách quan… trên mạng xã hội, nhiều hành vi đã bị
xử lý kịp thời thích đáng, nhưng những hành vi trên vẫn chưa dừng lại, vẫn còn
gây nhiễu thông tin, các cấp chính quyền ngoài việc cung cấp kịp thời thông tin
và tuyên truyền trong nhân dân, cần tăng cường công tác kiểm tra, sử dụng các
biện pháp kỹ thuật cũng như những biện pháp hành chính, hình sự để ngăn chặn và
xử lý, không để những hành vi đó tái diễn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét