Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 18 tháng 12, 2023

NVA41 - CÔNG HÀM 1958 CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG VÀ SỰ THẬT VỀ CÔNG HÀM ĐÓ

 

Giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 của Trung Quốc là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, để họ tiến hành hợp thức hóa yêu phi lý của họ về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Sự thật về công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 19/4/1958.

Trung Quốc nghiễm nhiên diễn giải nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một sự thật hiển nhiên cho thấy Việt Nam đã công nhận Trung Quốc có chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trái ngược hoàn toàn với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời tại thời điểm đó. Phải khẳng định rằng việc mà Trung Quốc giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong những hành động có tính toán nhằm hiện thực hóa mục đích thôn tính của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Theo như Trung Quốc họ lý giải thì: Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai ngày 4/9/1958 đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).

Sau đó, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng vào ngày 14/9/1958 đã gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, với nội dung công hàm nguyên văn như sau:

“Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”.

Có thể thấy được rằng, các tuyên bố nói trên của phía bên Trung Quốc cũng như của phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong bối cảnh đất nước Trung Quốc có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến quân sự căng thẳng xung quanh eo biển Đài Loan.

Năm 1956, là năm đầu tiên Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành bàn về Luật Biển thông qua các hội nghị quốc tế, sau đó vào năm 1958 đã ký kết một số hiệp định, tuy nhiên việc ký kết đó vẫn chưa đủ để có thể làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia.

Bối cảnh xuất hiện công hàm

Nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ nguồn tài nguyên và khoáng sản biển ngay từ đầu thế kỷ XX. Từ đó họ đã bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền của quốc gia của mình trên biển trong đó có Trung Quốc. Mặc dù trong lịch sử thì Trung Quốc rất ít quan tâm đến các vấn đề trên biển biển, tuy nhiên thì cũng đã bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Trung Quốc, mặc dù lúc đó chưa phải là một thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng đã có những hành động lên tiếng với cộng đồng quốc tế muốn giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng Trung Quốc được hưởng lợi.

Xây dựng chiến lược cho tương lai, thì Trung Quốc đặt ra các vấn đề về cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm, khai thác những nguồn tài nguyên trên biển. Trên thực tế, có thể thấy Trung Quốc đã có ý định nhòm ngó, xâm chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam ngay từ đầu thế kỷ thế XX.

- Thực hiện quyết tâm giải phóng bằng được Đài Loan, cho nên ngày 03/9/1954 Trung Quốc đã tấn công các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Đây được coi là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất.

Tiếp đến vào ngày 11/8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ “giải phóng” Đài Loan, và tiế hành các hoạt động tăng cường pháo kích vào hai đảo Mã Tổ và Kim Môn.

Cho đến ngày 12/9/1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ muốn sử dụng vũ khí nguyên tử để tấn công Trung Quốc nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự việc để cho quân đội của Hoa Kỳ liên can vào trận chiến này cũng như việc phải sử dụng vũ khí nguyên tử.

Cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai tiếp tục xảy ra vào năm 1958. Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn vào ngày 23/8/1958. Tổng thống Eisenhower lúc này theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Mã Tổ và Kim Môn.

Ngoài việc bối cảnh của Trung Quốc lúc bấy giờ hết sức “phức tạp và cấp bách” như đã nêu trên, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đưa ra Công hàm 1958 trong bối cảnh quan hệ đặc thù giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Trung Quốc tại thời điểm đó “vừa là đồng chí vừa là anh em”.

Trong tiến trình lịch sử như chúng ta đã biết bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc vào năm 1949 từ tay các lực lượng khác rồi tiến hành bàn giao lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Cho đến năm 1957, Trung Quốc cũng đã tiến hành giúp chúng ta chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó Trung Quốc cũng đã tiến hành trao trả lại cho Việt Nam.

Từ vấn đề này chúng ta có thể thấy rất rõ được mối quan hệ đặc thù của hai đất nước Việt Nam – Trung Quốc tại thời điểm đó. Chính vì thế cho nên, trong tình hình Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt về lãnh thổ, Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp vào cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai, cho nên mục đích chính Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan nhằm khẳng định chủ quyền của Trung Quốc trên biển trong tình thế Trung Quốc đang bị đe dọa tại eo biển Đài Loan.

Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên thực hiện mục đích, ý đồ “sâu xa” trên Biển Đông cho nên Trung Quốc đã cố tình “lồng ghép” thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố của họ. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đưa ra công hàm xuất phát từ mối quan hệ hết sức đặc biệt với Trung Quốc trong thời điểm Việt Nam lúc đó đang thực sự rất cần tranh thủ có được sự giúp đỡ và ủng hộ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa. Việc đưa ra Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng cho thấy cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của Việt Nam trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trong khi tình hình Trung Quốc đang có diễn biến quân sự phức tạp tại eo biển Đài Loan.

Nội dung trong Công hàm 1958 cũng được Thủ tướng Phạm Văn Đồng thể hiện rất thận trọng và tỉ mỉ, trong đó đặc biệt có thể nói rằng là không hề có việc Việt Nam tuyên bố từ bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Bởi vì Thủ tướng Phạm Văn Đồng nắm rất chắc quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia không thuộc về chính phủ mà nó thuộc vào thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và mục tiêu hàng đầu của Nhà nước và nhân dân Việt Nam đó chính là bảo vệ tòan vẹn lãnh thổ quốc gia, nhất là trong bối cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên.

Công hàm 1958 thể hiện rất rõ rang hai nội dung: Một là, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.

Qua đó chúng ta có thể thấy rằng trong Công hàm không hề có câu từ nào, đề cập đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ, và càng không hề nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã đưa ra.

Do vậy, chỉ cần xét về mặt câu chữ thôi thì cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Việt Nam đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua Công hàm 1958, và thật là vô lý khi coi đó là bằng chứng cho rằng Việt Nam thừa nhận Trung Quốc có chủ quyền của đối với hai quần đảo này. Đây hoàn toàn là nội dung xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có bất kỳ một cơ sở pháp lý.

Chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là không thể chối cãi.

Như chúng ta đã biết tham dự tại Hội nghị San Francisco 1951, Trung Quốc đòi yêu sách về chủ quyền của trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị tất cả các quốc gia tham dự bác bỏ. Cũng tại hội nghị này, tất cả các quốc gia tham dự đều nhất trí và không hề có sự phản đối hay ý kiến nào khi Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền liên tục và lâu đời của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều đó có thể khẳng định rằng là kể từ năm 1951, chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được cộng đồng Quốc tế thừa nhận.

Việc mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố về chủ quyền của mình đối với hai quần đảo này là vô hiệu theo luật pháp quốc tế. Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc với tư cách là một nước chính thức tham gia, cũng đã thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Hiệp định thông qua các điều khoản cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Chính vì vậy cho nên việc Trung Quốc tuyên bố về chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố của Trung Quốc ngày 4/9/1958 đương nhiên được xem là không có hiệu lực trên cơ sở pháp lý quốc tế.

Vấn đề mà Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Công hàm 1958 của mình bởi vì theo Hiệp định Genève 1954 điều đó là không cần thiết và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.

Dưới góc độ tài phán quốc tế tại thời điểm đó, thì Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có quyền hạn và nghĩa vụ hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo như luật pháp quốc tế quy định. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đưa ra Công hàm chỉ là thể hiện sự tán thành của mình với những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp trên cơ sở luật pháp quốc tế được cộng đồng quốc tế thừa nhận cho đến giai đoạn đó.

Trong nội dung bản tuyên bố của mình ngày 4/9/1958 có một phần nội dung mà Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, cũng như vi phạm nghiêm trọng về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đã thừa nhận và đã tái thừa nhận nhiều lần một cách minh thị.

Trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc thì Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã khẳng định lập trường tán thành và ghi nhận tuyên bố của Trung Quốc về giới hạn 12 hải lý về lãnh hải, còn những nội dung Trung Quốc diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của mình theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới vì dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế đây là điều mặc nhiên vô hiệu.

 Trong khi đó, theo Hiệp định Genève 1954, Chính quyền Việt Nam, bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Nhắc tới việc khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này phải kể đến là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân Việt Nam chống lại sự xâm lược của máy bay và tàu chiến Trung Quốc vào năm 1974 tại quần đảo Hoàng Sa.

Về thực chất, thông qua Công hàm 1958 Việt Nam chỉ thể hiện một cử chỉ hữu nghị, một thái độ chính trị với tuyên bố của Trung Quốc về giới hạn lãnh hải 12 hải lý. Còn hết sức vô lý, nếu cố tình xuyên tạc và suy diễn (như phía Trung Quốc lập luận), cho rằng một người con ưu tú của dân tộc như Thủ tướng Phạm Văn Đồng, , lại đi ký văn bản từ bỏ chủ quyền và lãnh thổ của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam để giành được độc lập, tự do đã phải chiến đấu hết mình.

Cần phải nhấn mạnh một lần nữa rằng tất cả những hành động ngoại giao trong Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong có khẳng định rằng không phải là Thủ tướng không nhận ra được ý đồ bất chính của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có quá nhiều kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà lúc đó Trung Quốc cũng đã có không ít động thái gây ra rất nhiều các bất lợi cho Việt Nam.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đưa ra công hàm ngày 14/9/1958 có nội dung hết sức phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Trung Quốc tại thời điểm đó, đồng thời thông qua Công hàm cũng cho thấy được sự hàm chưa thái độ của người Việt Nam không bao giờ từ chủ quyền của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, một lần nữa khẳng định rằng Việt Nam chưa bao giờ ra nghị quyết hoặc lên tiếng từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trung Quốc đã rất nhiều lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, tung hỏa mù, biến có thành không, biến không thành có từ đó làm cho chính người dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế có nhận thức lệch lạc về vấn đề này theo hướng có lợi cho Trung Quốc trong suốt quá trình mà Trung Quốc thực hiện mưu đồ nhằm mong muốn làm bá chủ trên Biển Đông.

Tuy nhiên, dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và quyết tâm sắt đá của nhân dân Việt nam trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận của Trung Quốc chỉ càng khiến cho âm mưu cũng như thủ đoạn của Trung Quốc ngày càng lộ rõ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ mong muốn có thể “nuốt trọn” Biển Đông, theo kiểu “miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình”.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...