Qua
thăng trầm lịch sử, tinh thần đoàn kết đã trở thành sức mạnh Việt Nam. Sức mạnh
ấy được kết tinh và củng cố từ giá trị văn hóa, niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo,
từ tư tưởng nhân văn, hòa hợp của toàn dân tộc.
Đoàn
kết là sức mạnh
Tinh
thần đoàn kết là bài học quý đã được tổng kết trong suốt chiều dài lịch sử dựng
nước và giữ nước. Thời nào các bậc minh quân khéo dùng chính sách đoàn kết tôn
giáo, đoàn kết dân tộc thì đất nước thái bình, thế nước đi lên. Ngay khi bắt
tay vào xây dựng nền độc lập cho quốc gia Đại Việt, Đinh Tiên Hoàng đã phát huy
Phật giáo ở cả khía cạnh trí tuệ và cố kết nhân tâm, để đoàn kết, phò vua, chống
giặc, giúp nước. Sang thời Lý, Trần, Phật giáo trở thành quốc đạo, vun bồi trí
đức để cả dân tộc đoàn kết một lòng, cùng bảo vệ non sông…
Trong
cuộc đấu tranh chống đế quốc, đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc trở thành
chiến lược quan trọng. Theo TS. Nguyễn Viết Chức, Phó Chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn
Văn hóa - Xã hội, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ngay từ ngày đầu của
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch
để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi. Phải đoàn kết chặt chẽ không phân
biệt đảng phái, giai cấp, tôn giáo”.
Không
lâu sau khi nước nhà giành được độc lập, Người chỉ đạo triệu tập Hội nghị Đại
biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam. Mở đầu bài phát biểu tại hội nghị, Người nhấn
mạnh: “Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam
ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt
Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự phân chia nòi giống,
tiếng nói gì nữa”.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn xác định đoàn kết là sức mạnh. Người nhìn ra bản chất của
đoàn kết, chỉ ra gốc của đại đoàn kết chính là đoàn kết toàn dân. Những nội
dung liên quan đến đại đoàn kết luôn được thể hiện rõ ràng, sinh động, bao trùm
trong tư tưởng và hành động của Người. Theo đó, đã là người Việt Nam, dù theo
tôn giáo hay không theo tôn giáo, dù theo tôn giáo nào thì đều chung một dân tộc,
vì vậy, đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc là tất yếu. Trong quá trình
lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, Đảng, Nhà nước phải luôn có chủ trương, chính sách
và giải pháp thực hiện đại đoàn kết, đồng thời khi thực hiện đại đoàn kết cần bảo
đảm tính lâu dài: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu
dài”; và thường xuyên được củng cố: “Đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải
củng cố: Nền có vững nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi”.
Động
lực để phát triển
Trong
sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà nước ta luôn khẳng định đại
đoàn kết là truyền thống quý báu, là đường lối chiến lược của Đảng, là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi. Thực tế những năm qua, công tác dân tộc, tôn giáo
luôn được đặc biệt chú trọng. Những chủ trương, chính sách về tín ngưỡng, tôn
giáo, về dân tộc không những khẳng định trong Hiến pháp, pháp luật, mà còn được
thể hiện sinh động trong cuộc sống.
Theo
Thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, năm 2003, cả nước có 6 tôn giáo với 15 tổ
chức, 17 triệu tín đồ, khoảng 20.000 cơ sở thờ tự, 34.000 chức sắc, 78.000 chức
việc. Năm 2022, Nhà nước đã công nhận 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo, với khoảng
27 triệu tín đồ, trên 29.000 cơ sở thờ tự, trên 53.000 chức sắc, khoảng 135.000
chức việc. Ngoài ra, hằng năm có trên 8.000 lễ hội về tín ngưỡng, tôn giáo, với
hàng vạn tín đồ tham gia. Điều đó phản ánh nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của người
dân, khẳng định chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước về bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo.
Chưa
kể, trong 10 năm qua, thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo,
cơ quan có thẩm quyền đã cấp hàng trăm ha đất để xây dựng cơ sở thờ tự như TP.
Hồ Chí Minh giao 7.500m2 đất cho Tổng Liên hội thánh Tin lành Việt Nam (miền
Nam) xây dựng Viện Thánh kinh Thần học; Đắk Lắk giao hơn 11.000m2 đất cho Tòa
Giám mục Buôn Ma Thuột; Đà Nẵng giao hơn 9.000m2 đất cho Tòa Giám mục Đà Nẵng;
Quảng Trị giao 15ha đất cho Giáo xứ La Vang... Đó là bằng chứng sinh động cho
nguyên tắc Đảng, Nhà nước vì đời sống tinh thần của tín đồ các tôn giáo.
Việt
Nam là quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 dân tộc thiểu
số, với 14,3 triệu người, chiếm 14,7% dân số cả nước (năm 2022). Đa số đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống thành cộng đồng ở các khu vực miền núi, biên giới,
vùng sâu, vùng xa kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Vì thế, trong tất cả văn
kiện Đại hội Đảng (thời kỳ đổi mới) đều xác định vấn đề dân tộc “có vị trí chiến
lược lớn’’, “luôn luôn có vị trí chiến lược’’, “có vị trí chiến lược lâu dài
trong sự nghiệp cách mạng nước ta”...
Do
đó, hàng năm, chính sách cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số được đẩy mạnh nhằm
hỗ trợ nâng cao đời sống, cải thiện sinh kế của người dân, đặc biệt là đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng, khơi thông thế mạnh, tiềm năng kinh tế - xã hội của
vùng. Các chính sách này luôn nhất quán theo nguyên tắc các dân tộc “bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”. Như lời Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy
ban Dân tộc Hầu A Lềnh khẳng định tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn của đại
biểu Quốc hội, Kỳ họp thứ Năm, Quốc hội Khóa XV (tháng 6.2023) rằng: Công tác
dân tộc được thực hiện thông qua các chủ trương của Đảng, các quy định pháp luật
và hệ thống chính sách liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, góp phần quan trọng
thực hiện chiến lược đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam.
Những
kết quả đạt được trong công tác dân tộc, tôn giáo thời gian qua chính là động lực
để đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo phát huy sức mạnh, thi đua
phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh, xây dựng và củng cố
khối đại đoàn kết vì sự phát triển bền vững./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét