Mới đây ngày 03/12/2023, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) phát tán
tin bài “Những cái khó của Việt Nam trong hồ sơ chủ quyền Biển Đông” và trên
trang blog Việt Tân phát tán bài viết “50 năm Hoàng Sa”, với nội dung xuyên tạc
Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và chủ quyền của Trung Quốc
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Song đây là một "vở kịch diễn lại" quá lố của Trung Quốc bởi
công luận Việt Nam và Quốc tế đã từng phân tích sáng tỏ nội
dung Công hàm 1958, khẳng định rằng văn bản này được thể hiện rất thận trọng,
đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Việc 2 blog của RFA và Việt Tân tán phát diễn giải nội dung Công hàm ngày
14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã
công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn
toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất
chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời.
Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những
hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền
phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Để giúp
cho bạn đọc hiểu rõ bản chất âm mưu phản động, xuyên tạc của luận điệu trên;
bài viết này, đưa ra bối cảnh lịch sử, nội dung và ý nghĩa của công hàm ngoại
giao ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, như sau:
Về bối cảnh lịch sử:
Năm 1956, Liên
Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số
hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về
lãnh hải của một số quốc gia.
Từ đầu thế kỷ
XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài
nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch
sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những
đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc,
nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế
nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong
chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm
những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra.
Trên thực tế,
cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã nằm trong chiến lược "lấn
sân" của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển.
Ngày 26/5/1950,
chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh
cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc
nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ
Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng
Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo
ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo
biển Đài Loan lần thứ nhất.
Ngày 11/8/1954,
Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng" Đài Loan, và
tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ.
Ngày 12/9/1954,
Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ
khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử
cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này.
Năm 1958, tiếp
tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23/8/1958 Trung
Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ
tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến
Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim
Môn và Mã Tổ.
Ngoài bối cảnh
"phức tạp và cấp bách" đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc
sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH -Trung Quốc lúc đó "vừa
là đồng chí vừa là anh em". Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và
chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi
trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo
Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao
trả cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH - Trung
Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa
chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ
đưa tàu chiến vào can thiệp, trước tình hình đó ngày 04/9/1958 Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết
định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc
và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa của Việt Nam), trước hết nhằm khẳng định chủ
quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan.
Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa" của họ trên
Biển Đông nên đã "lồng ghép" thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
của Việt Nam vào bản tuyên bố.
Sau
đó, trước bối cảnh tình hình đó cùng với quan hệ ngoại giao đặc thù giữa 2 nước
Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa và Trung Quốc. Ngày 14/9/1958, Thủ tướng Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai,
nguyên văn như sau:
"Thưa Đồng
chí Tổng lý,
Chúng tôi xin
trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ
nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng".
Nội dung Công
hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc
biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng thấu hiểu quyền
tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục
tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra
đời của Công hàm như đã nêu trên.
Công hàm 1958
có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành
việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị
cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc
tuyên bố.
Trong Công hàm
của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ
và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do
vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng
nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng
khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo
này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
Tại Hội nghị
San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của
Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt
Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản
đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể
từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của
Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về
chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô
hiệu.
Hiệp định
Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ
quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều
khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn
trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4/9/1958 về
cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực.
Trong Công hàm
1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền
quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ
tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ
quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế.
Công hàm 1958
của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung
Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp
quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4/9/1958
của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt
Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như
đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Chính phủ VNDCCH trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã
khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh
hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ
quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập
tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp
luật quốc tế.
Trong khi đó,
Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền
lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn
bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực
tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết
liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung
Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.
Trong bối cảnh
lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày
14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý
của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần
đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái
độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của
Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận
phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân
tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính
ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do.
Có lẽ cần phải
nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của
Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm
phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi
cho VNDCCH. Nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù
hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy giờ,
đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt
Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của
Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của
Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tới đây, chúng
ta có thể khẳng định, trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển
Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có
thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức
của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo
hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển
nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi
xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến
cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp
đặt ý đồ "nuốt trọn" Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình
không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét