Trong công hàm gửi Liên Hợp Quốc ngày 17/4, Trung Quốc cho rằng cộng đồng quốc tế và cả chính phủ Việt Nam đã "công nhận chủ quyền" của Bắc Kinh với cái gọi là Tây Sa và Nam Sa. Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là cách Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ngay sau đó, Chính phủ Việt Nam đã bác bỏ quan điểm sai trái về yêu sách chủ quyền Biển Đông của Trung Quốc.
Công
hàm của Trung Quốc dẫn Công thư năm 1958, cho rằng "Chính phủ Việt Nam
công nhận và ủng hộ tuyên bố của chính phủ Trung Quốc về lãnh hải mà Trung Quốc
đưa ra ngày 4/9/1958". Theo đó, Trung Quốc đòi có "lãnh hải 12 hải
lý, áp dụng cho tất cả lãnh thổ của Trung Quốc, gồm có Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa
và Trung Sa và các đảo khác thuộc Trung Quốc".
Việc
Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung
Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên
tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý
của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối
cảnh lịch sử đương thời.
Có
thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động
có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của
họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Là
người rất thích nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề biển đông xin có vài ý kiến cần
hiểu đúng về Công hàm của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng như sau:
Thứ
nhất, ngày 14/9/1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH)
Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:
"Thưa
Đồng chí Tổng lý, Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố
ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết
định về hải phận của Trung Quốc.
Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho
các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt
biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”.
Công
hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng:
Một
là, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc
mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý;
Hai
là, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn
trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.
Trong
Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề
lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã
nêu.
Do
vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng
nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng
khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo
này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
Bởi,
hơn ai hết, chính Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thấu hiểu quyền tuyên bố
về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là
Quốc hội, và việc bảo vệ tòan vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng
đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của
Công hàm như đã nêu trên.
Thứ
hai, bối cảnh xuất hiện công hàm
Trong
chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm
những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra. Trên
thực tế, cũng từ đầu thế kỷ 20, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Rõ
ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ 20
đã nằm trong chiến lược "lấn sân” của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên
giới quốc gia trên biển.
Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách” đối với
Trung Quốc như đã nêu trên, Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời
trong bối cảnh quan hệ đặc thù Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Trung Quốc lúc đó
"vừa là đồng chí vừa là anh em”.
Năm
1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung
Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc.
Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực
lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam.
Điều
này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Trung
Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa
chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ
đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm
đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong
tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan.
Tuy
nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa” của họ trên Biển Đông
nên đã "lồng ghép” thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
vào bản tuyên bố. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối
quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội
chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung
Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan.
Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh
hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến
vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.
Nội dung Công hàm
1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là
không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Đồng thời, phải đặt trong bối cảnh cụ thể lúc bấy giờ,
Hoàng Sa, Trường Sa đang thuộc quyền quản lý của Việt Nam cộng hòa theo Hiệp
định Genève 1954 mà Trung Quốc có tham gia. Do đó, theo logic thông thường là
bạn không thể cho người khác cái gì khi bạn chưa có được (cái đó)”.
Ngày
17/4/2020, Trung Quốc tiếp tục viện dẫn sai lệch công thư của cố thủ tướng Phạm
Văn Đồng công nhận chủ quyền của Trung Quốc. Công thư này chỉ ghi nhận Trung
Quốc tuyên bố chủ quyền lãnh hải 12 hải lý, không nhắc gì đến vấn đề lãnh thổ
và chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc không đề cập là đúng
vì hai quần đảo này trong bối cảnh lấc bấy giờ nằm dưới vĩ tuyến 17 thuộc quyền
quản lý của Việt Nam cộng hòa và được Pháp chuyển giao trên thực tế vào năm
1956 phù hợp với Hiệp định Genève 1954.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét