Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực
tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày
càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như không
thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế hoặc đồng nhất kinh tế thị trường
với chủ nghĩa tư bản... Thực tế, về quá trình nhận thức của Đảng đã từng bước
hoàn thiện quan niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vai
trò của các thành phần kinh tế ở nước ta.
Trước Đại hội VI của Đảng, chế độ sở hữu với
nhiều hình thức sở hữu đan xen, hỗn hợp và nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều
hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh khác nhau không được thừa nhận ở nước
ta. Chế độ sở hữu được quy về hai hình thức chính là sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể. Các hình thức sở hữu toàn dân, tập thể và các thành phần kinh tế xã hội
chủ nghĩa được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, còn các hình thức sở hữu
và thành phần kinh tế khác như kinh tế cá thể, tiểu chủ,… là đối tượng cải tạo,
phải thu hẹp dần và tiến tới bị thủ tiêu, xóa bỏ.
Đến Đại hội VI, quan điểm
nói trên đã được thay đổi một cách căn bản, khi Đảng xác định quá trình từ sản
xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hóa từ nền kinh tế
còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hóa. Có thể nói, đây
là điểm đột phá trong lý luận về mô hình phát triển. Bởi trước đó, trong các
văn kiện chỉ mới nói tới việc sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, thì nay đã
khẳng định là chuyển nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần. Qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX và X, Đảng đã hoàn thiện
quan niệm về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cụ thể:
- Trên cơ sở chế độ sở hữu
toàn dân, tập thể và tư nhân, hình thành nhiều hình thức sở hữu: sở hữu nhà
nước; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân; sở hữu hỗn hợp và sở hữu nhà đầu tư nước
ngoài.
- Các thành phần kinh tế
bao gồm: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ,
tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các
thành phần kinh tế này có các hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng với sự đan
xen, hỗn hợp của các loại hình sở hữu.
Trên cơ sở đổi mới quan
niệm về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, tại các Đại
hội VI, VII, VIII, IX và X, Đảng đều chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Trong nền kinh tế
ấy, như khẳng định của Đảng tại Đại hội X: “Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là
lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế,
tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một
trong những động lực của nền kinh tế”. Quan điểm này cũng được Đảng tái khẳng
định và cụ thể hóa thêm tại Đại hội XI.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế;... thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật…
Đến Đại hội XIII, trong
định hướng phát triển, Đảng ta xác định hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường
thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy
đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước…
Có thể nói, từ Đại hội Đảng
lần thứ VI đến Đại hội Đảng lần thứ XIII, thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện và được chứng minh tính đúng đắn
trên thực tế khi đã đưa nước ta thoát khỏi thời kỳ khó khăn về kinh tế, đạt tốc
độ tăng trưởng có lúc thuộc nhóm cao nhất thế giới. Từ nước nghèo, thu nhập
thấp, Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình, hội nhập ngày càng
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Như vậy, kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc
tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự
quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một kiểu kinh tế thị trường
mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế
vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được
dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện
trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa đầy đủ.
Đưa ra quan niệm phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nêu trên là một đột phá lý luận
rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua hơn 35
năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có
chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.
Định hướng xã hội chủ nghĩa
trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất
chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong
suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt
tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng
không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng
kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu
phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói,
giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó
khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh,
bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét