Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo là trách
nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; yếu tố quan trọng để đất nước phát
triển bền vững. Trong bối cảnh thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường,
để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, vấn đề cần quan tâm hiện nay là tăng cường sức
mạnh quốc gia, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển vững mạnh.
Là quốc gia biển nên vấn đề an ninh biển có
tầm quan trọng đặc biệt đối với Việt Nam, tác động lớn đến phát triển kinh tế
biển và bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường hòa bình của đất nước.
Tuy nhiên, hiện nay tình hình tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và các vấn đề an
ninh phi truyền thống, như: khủng bố, cướp biển, buôn lậu, tranh chấp ngư
trường, khai thác tài nguyên biển gây ô nhiễm môi trường,… diễn biến ngày càng
phức tạp, khó dự báo.
Về tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông hiện
đang tồn tại bốn vấn đề lớn liên quan đến chủ quyền biển, đảo Việt Nam chưa
được giải quyết: Chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa; bảo vệ chủ quyền và giải
quyết tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa giữa năm nước sáu bên; phân
định ranh giới các vùng biển theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm
1982; xác định ranh giới ngoài vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Cùng với
đó, những nhân tố có thể gây mất ổn định trên Biển Đông vẫn đang diễn ra gay
gắt: xâm phạm chủ quyền, an ninh; nguy cơ xung đột vũ trang; tranh chấp biển,
đảo và thềm lục địa, v.v. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Kiên quyết, kiên trì
đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển...”.
Quán triệt tinh thần đó, cần thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế
biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta trở thành quốc gia
trong khu vực mạnh về kinh tế biển, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp
tác quốc tế. Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22/10/2018 về Chiến lược
phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát
triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế
biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ”. Để kinh tế phát triển tương xứng với tiềm năng của biển,
gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc
chủ quyền biển, đảo cần phải tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản theo hướng
giảm khai thác gần bờ, đẩy mạnh khai thác xa bờ; thúc đẩy các hoạt động nuôi
trồng, khai thác hải sản bền vững, tăng cường bảo vệ, tái sinh nguồn lợi hải
sản và môi trường biển, nghiêm cấm các hoạt động khai thác mang tính hủy diệt.
Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công
nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, công
nghiệp hàng hải, đóng tàu, nuôi trồng, khai thác và chế biến hải sản chất lượng
cao. Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, xây dựng các trung tâm kinh tế ven biển mạnh,
tạo thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, xuất khẩu,
du lịch, dịch vụ nghề cá, dầu khí, vận tải biển, v.v. Phát triển kinh tế các
đảo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, thăm dò, khai thác, nuôi trồng thủy sản gắn
với bảo vệ, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động
hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Xây dựng
các chiến lược, quy hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên
biển, đảo; tăng cường đầu tư các nguồn lực và hoạch định cơ chế chính sách
trong phòng, chống thiên tai, thảm họa, bảo vệ môi trường biển.
Hai là, xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạnh
về mọi mặt. Việc tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý biển, đảo
và các hoạt động kinh tế biển, nhất là lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, Biên
phòng, Dân quân tự vệ biển và lực lượng Kiểm ngư vững mạnh, đủ sức hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao là yêu cầu bức thiết hiện nay. Trong đó, Hải
quân nhân dân Việt Nam là lực lượng chuyên trách hoạt động trên biển,
giữ vai trò quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các vùng biển, đảo của
Tổ quốc, cần được ưu tiên đầu tư xây dựng theo hướng hiện đại hóa và có chính
sách đãi ngộ thỏa đáng, đặc biệt là lực lượng thường xuyên tuần tra trên biển
và chốt giữ các đảo xa bờ. Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng
chuyên trách quản lý, duy trì thực thi pháp luật trên biển, cần được tiếp tục
củng cố, hoàn thiện về tổ chức, biên chế, tăng cường trang bị hiện đại, bảo đảm
đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Bộ đội Biên phòng cần
được đầu tư đủ trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện cơ động, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, cứu hộ, cứu nạn, chống buôn lậu và các tệ nạn
xã hội trên các vùng biển. Dân quân tự vệ biển được xây dựng
theo phương châm vững mạnh, rộng khắp, ở đâu có tàu, thuyền, ngư dân hoạt động
và dân cư sinh sống trên đảo thì ở đó có dân quân tự vệ biển; lấy doanh nghiệp
nhà nước, hợp tác xã làm nòng cốt; tổ chức biên chế phù hợp với đặc điểm của
từng địa phương, bảo đảm thành ba tuyến: ven bờ, lộng, khơi; coi trọng lực
lượng hoạt động trên biển. Kiểm ngư là lực lượng được tổ chức
chặt chẽ, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử
lý các vi phạm của tàu thuyền nước ngoài; hỗ trợ ngư dân, đảm bảo an ninh trật
tự và có vai trò quan trọng trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển
của Tổ quốc.
Ba là, kiên quyết, kiên trì giải quyết tranh chấp
trên biển, đảo bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Là
thành viên của Liên hợp quốc, của UNCLOS cũng như tuyên bố của các bên về cách
ứng xử trên biển Đông (DOC), Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp
quốc tế; kiên trì con đường giải quyết các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa
bình, trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau; thông qua đàm phán, thương
lượng, nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của
tất cả các bên liên quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
vì hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế. Theo tinh thần đó, những vấn đề còn
đang bất đồng, tranh chấp song phương thì giải quyết song phương; những vấn đề
tranh chấp liên quan đến nhiều bên thì giải quyết đa phương và phải hết sức
công khai, minh bạch giữa các bên có liên quan. Trong khi nỗ lực xử lý các vấn
đề nảy sinh ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, cần kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ những lợi ích chính đáng của ta trên biển với quyết tâm “Việt Nam
quyết không để một tấc đất, tấc biển nào bị xâm phạm”; kiên trì tìm kiếm một
giải pháp lâu dài và yêu cầu các bên liên quan kiềm chế, không có hoạt động làm
phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tuân
thủ cam kết giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc của
luật pháp quốc tế, UNCLOS và 05 nguyên tắc chung sống hòa bình, tăng cường nỗ
lực xây dựng lòng tin, hợp tác đa phương về an ninh biển, nghiên cứu khoa học,
chống tội phạm; cùng nhau thực hiện nghiêm chỉnh DOC, hướng tới xây dựng Bộ quy
tắc ứng xử COC để Biển Đông thực sự là vùng biển hòa bình, ổn định, hữu nghị,
hợp tác và phát triển. Tại các vùng biển không phải là tranh chấp, hoàn toàn thuộc
chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, Việt Nam có quyền áp dụng
các biện pháp cần thiết, phù hợp với quy định của UNCLOS để bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng.
Bốn là, thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng. Đối
ngoại quốc phòng là vấn đề quan trọng diễn ra chủ yếu trong thời bình và cả khi
có tình huống chiến tranh, thực hiện tốt vấn đề này góp phần vừa giữ vững độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hòa bình, ổn định trên Biển Đông, vừa duy
trì sự ổn định chính trị - xã hội trong nước và môi trường quốc tế thuận lợi để
phát triển kinh tế. Thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng trong bối cảnh
hội nhập quốc tế, điều quan trọng trước hết là hợp tác chặt chẽ trên tất cả
lĩnh vực, đặc biệt là giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Các ngành chức
năng, trọng tâm là Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Bộ Ngoại giao cần xây dựng,
hoàn thiện quy chế phối hợp, trọng tâm là công tác nghiên cứu cơ bản, phân tích
dự báo chiến lược về tình hình thế giới, khu vực, chiều hướng diễn biến của mối
quan hệ quốc tế, về đối tác, đối tượng của cách mạng. Từ đó, tham mưu cho Đảng,
Nhà nước hoạch định đường lối chiến lược và các đối sách xử lý thắng lợi các
tình huống quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác
quốc phòng với các nước, nhất là các nước trong khu vực và các nước lớn trên
thế giới để tăng sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Hải quân, Cảnh sát biển cần
tăng cường giao lưu với các đối tác, tổ chức các hoạt động phối hợp tuần tra
chung, diễn tập, cứu hộ, cứu nạn trên biển, góp phần giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định và triệt tiêu nguy cơ xung đột trên biển.
Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo
thiêng liêng của Tổ quốc. Thực hiện tốt nội dung này, các đơn vị Hải
quân, Cảnh sát biển, Biên phòng đóng quân ở địa phương ven biển và các đảo cần
kết hợp chặt chẽ với địa phương và cơ quan Tuyên giáo xây dựng kế hoạch, tổ
chức bồi dưỡng báo cáo viên, biên soạn, phát hành tài liệu tuyên truyền sâu
rộng trong các tầng lớp nhân dân, nhất là cư dân sinh sống ở ven biển, trên
đảo, ngư dân làm ăn trên biển, kiều bào ta ở nước ngoài. Tuy nhiên, trong điều
kiện hiện nay, công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo cần có sự tham gia,
phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và các phương tiện thông tin
đại chúng, dưới sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của các cơ quan chức năng
Trung ương. Đặc biệt, cần thông tin kịp thời, minh bạch, chính xác để mọi người
dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và nhân dân thế giới hiểu cơ sở
pháp lý, chứng cứ lịch sử và sự chiếm hữu thực tế của Việt Nam trên các vùng
biển, đảo ở Biển Đông; hiểu rõ quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà nước ta về
giải quyết vấn đề chủ quyền trên Biển Đông; từ đó, xây dựng niềm tin, ý chí
quyết tâm, đồng thuận của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tranh thủ sự đồng
tình ủng hộ của nhân dân thế giới để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo và
các hoạt động kinh tế biển.
Cùng với công tác truyên truyền về biển, đảo,
cần kết hợp với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, làm cho ngư dân hiểu rõ
các quy định trong luật biển Việt Nam và pháp luật quốc tế, nhất là Công ước
Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, làm cho ngư dân không chỉ chấp hành, mà
còn kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật của tàu, thuyền nước ngoài
ở vùng biển Việt Nam. Cần sớm đưa các nội dung về chủ quyền biên giới, lãnh
thổ, biển, đảo vào chương trình giáo dục phổ thông và đại học; phổ biến rộng
rãi trong cộng đồng người Việt Nam và quốc tế về chủ quyền lãnh thổ Việt Nam
trên biển.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét