Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 20 tháng 10, 2017

Cùng nghiên cứu về âm mưu "Phi chính trị hóa Quân đội"

“Phi chính trị hóa” Quân đội là một âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực phản động chống phá cách mạng Việt Nam, với mục đích tách Quân đội nhân dân Việt Nam ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm cho Quân đội không còn là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng và Nhà nước.

 Thuật ngữ “phi chính trị hóa” quân đội xuất hiện vào những năm 80 của thế kỷ XX. Nội dung cơ bản của luận điệu đó là: quân đội trung lập, đứng ngoài chính trị, không chịu sự lãnh đạo, chi phối của bất cứ chính đảng, lực lượng chính trị nào; quân đội chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ lợi ích của nhân dân.

Thực tiễn những năm 90 của thế kỷ XX, các thế lực thù địch đã thành công với âm mưu, thủ đoạn này. Đó là làm cho Quân đội Liên Xô và các nước Đông Âu - một lực lượng hùng mạnh, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động đã bị “phi chính trị hóa”, tự xóa bỏ nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị, từ bỏ cơ chế Đảng Cộng sản lãnh đạo quân đội, vì vậy, khi đất nước Xô-viết và các nước Đông Âu xảy ra biến cố chính trị, Quân đội đã đứng ngoài cuộc, chế độ XHCN sụp đổ. 

Đối với Quân đội ta, chúng đã và đang sử dụng mọi biện pháp, hòng vô hiệu hóa, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đối với Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam. Chúng ra sức tuyên truyền phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về giai cấp và đấu tranh giai cấp; xuyên tạc tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối quân sự của Đảng ta, đặc biệt là quan điểm về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, QĐND; làm lu mờ bản chất, truyền thống của Quân đội; thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, chiến sĩ (CB,CS), làm mất phương hướng chính trị, mục tiêu chiến đấu của Quân đội. Chúng lập luận rằng: Quân đội “chỉ là công cụ của quốc gia, dân tộc”, vì thế “không cần phải đặt dưới sự lãnh đạo của đảng phái nào”,… Gần đây, lợi dụng việc đóng góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, một số người hô hào: “quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái hay một thể chế chính trị nào”; “quân đội trung lập, quân đội đứng ngoài chính trị”,… Thậm trí còn “tung hỏa mù”, rằng ĐCSVN đã “cố tình đánh tráo khái niệm”, “đi ngược lại quy luật” và đề nghị “bỏ quy định lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với ĐCSVN” trong Hiến pháp.

Có thể khẳng định, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội là một chiêu bài, một âm mưu hết sức nguy hiểm, thâm độc trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Xét về nội dung tuy không mới, nhưng về thủ đoạn, cách thức tiến hành thì có sự thay đổi, điều chỉnh so với trước. Chúng triệt để lợi dụng việc nước ta hội nhập, mở cửa và hạn chế trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội bằng mọi hình thức hết sức tinh vi.

Trên thực tế, bất kỳ giai cấp nào khi lên cầm quyền điều hành đất nước cũng phải nhanh chóng nắm lấy quân đội và sử dụng quân đội làm công cụ để bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình. Ngay cả ở các nước tư bản, về hình thức thể chế chính trị là đa nguyên, nhưng thực chất vẫn là nhất nguyên, phục vụ quyền lợi của giai cấp tư sản.

Lịch sử hơn 72 năm qua ĐCSVN đã lãnh đạo Quân đội xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ quan trọng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, xứng đáng với truyền thống “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen tặng.

Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần nắm vững phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội, từ đó có cơ sở khoa học vạch trần luận điệu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch  ; đồng thời tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống./. 


"Ngày nay, chỉ cần phát triển kinh tế, không còn cần thiết bảo vệ Tổ quốc" - Là một luận điệu xuyên tạc, hết sức nguy hiểm

Lênin từng chỉ rõ: “Chính quyền nhà nước nhất định là vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng”. Trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, đánh đuổi giặc ngoại xâm để giành lấy chính quyền đã khó, thì việc giữ vững chính quyền của nhân dân lại càng khó khăn hơn, lâu dài và gian khổ hơn.

Trong tình hình hiện nay hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe doạ an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông - Nam Á vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" có những diễn biến phức tạp

Vậy thì không thể coi nhẹ nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn hiện nay được, mà nó phải được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với nhiệm vụ xây dựng Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay chính là bảo vệ Đảng, chính quyền Nhà nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng (trong đó có những kết quả trong xây dựng phát triển kinh tế), bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ…….


Như trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định “ Xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam XHCN là 2 nhệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam”.

Bất luận trong mọi hoàn cảnh không thể tách rời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

Tuyên truyền quan điểm sai trái là một trong nhiều âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, mà bản chất là nhằm xóa bỏ nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, xã hội; đòi xóa bỏ chế độ XHCN.

Gần đây, nhiều mạng xã hội đăng tải khá nhiều bài, tin, hình ảnh chống phá quan điểm, chủ trương, đường lối, vu khống, vu cáo lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội và lực lượng vũ trang, đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp 2013 nước CHXHCN Việt Nam, đòi “đa nguyên chính   trị, đa đảng đối lập",...

Đặc biệt, các thế lực thù địch đẩy mạnh việc tuyên truyền các quan điểm sai trái, đòi “phi chính trị hóa” Quân đội, đòi “dân sự hóa”, phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp mọi mặt đối với Quân đội; xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng về công tác quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xuyên tạc chức năng, nhiệm vụ của quân đội, thậm chí chúng cho rằng đất nước đã hòa bình, không cần phải coi trọng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Qua đó, chúng trông đợi sẽ truyền bá tư tưởng, đạo đức, lối sống phương Tây vào quân đội, làm cán bộ, chiến sĩ, rơi vào lối sống thực dụng, từng bước tác động nhằm làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân và truyền thống tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ.

Do đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống các quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. Và để hoàn thành nhiệm vụ quan trọng đó, mỗi Đảng viên cần quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng ta về chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tư tưởng dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Khẳng định: Quan điểm về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của Đảng có ý nghĩa quan trọng, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Xét về mặt lý luận và thực tiễn, chúng ta thấy đây không phải là chủ trương hoàn toàn mới của Đảng, chủ trương này đã được nêu trong nhiều văn kiện, nghị quyết, chỉ thị quan trọng của Đảng qua các kỳ đại hội. Đồng thời, quan điểm đó cũng bắt nguồn từ tư tưởng nhất quán lâu đời của Tổ tiên ta: Dựng nước phải đi đôi với giữ nước; đã được thực tiễn lịch sử dân tộc kiểm nghiệm, khẳng định qua hàng nghìn năm và trở thành quy luật trường tồn, phát triển của dân tộc ta.

Triết lý Hồ Chí Minh về phát triển đất nước theo tinh thần “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” chính là quy luật của cách mạng Việt Nam. Nội dung của quy luật này gồm học thuyết giải phóng và học thuyết phát triển, trong đó chứa đựng cả xây dựng và bảo vệ.

Bảo vệ Tổ quốc là quan điểm nhất quán, xuyên suốt trong sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đúc kết: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Ngay từ những ngày đầu trứng nước của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chủ tịch đã tuyên bố: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập”; “chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.


Tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy tư duy sâu rộng của mối quan hệ chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là tư tưởng quân sự, quốc phòng, an ninh, kháng chiến, mà kháng chiến bao giờ cũng đi liền với kiến quốc. Xây dựng Đảng, Nhà nước chính là nhằm bảo vệ Đảng và Nhà nước, bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Đảng, Nhà nước là phải tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nhà nước. Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới không phải chỉ là vấn đề của quốc phòng - an ninh, tăng cường quốc phòng an ninh mà là “phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội”./.

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Xây dựng và bảo vệ tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ không tách rời nhau. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hai nhiệm vụ đó đã, đang và sẽ tiếp tục được toàn dân, toàn quân ta thực hiện xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Xét về mặt lý luận và thực tiễn, chúng ta thấy đây không phải bây giờ mới được xác định; trái lại, nó đã được nêu trong nhiều văn kiện, nghị quyết, chỉ thị quan trọng của Đảng qua các kỳ đại hội. Quan điểm đó bắt nguồn từ tư tưởng nhất quán của Tổ tiên ta: Dựng nước phải đi đôi với giữ nước; đồng thời thể hiện nhận thức quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lãnh tụ V.I. Lênin chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”. Triết lý Hồ Chí Minh về phát triển đất nước theo tinh thần: Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Người đúc kết: Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.

Nhìn lại lịch sử, từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay, dân tộc ta chưa bao giờ được yên ổn tập trung sức xây dựng phát triển kinh tế - xã hội bởi các thế lực thù địch không ngừng tiến hành các hoạt động chống phá nước ta hòng lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Ðảng, nhằm xóa bỏ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó hiện nay tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến hết sức phức tạp với những biến động bất trắc khó lường, tiềm ẩn cả những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ, tích cực và tiêu cực đối với sự phát triển của mỗi quốc gia dân tộc. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại có bước tiến nhảy vọt tác động đến mọi quốc gia và các quan hệ quốc tế trong thế giới đương đại. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế tất yếu tác động đến tất cả các quốc gia với cả thời cơ và nguy cơ, tích cực và tiêu cực. Chúng ta càng phải ý thức sâu sắc sự gắn bó mật thiết giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa  xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”. Theo tinh thần Đại hội XI, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, tạo thành một thể thống nhất, “tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Bản chất của mối quan hệ này là sự gắn bó mật thiết giữa xây dựng và bảo vệ, trong xây dựng có bảo vệ, trong bảo vệ có xây dựng. Như vậy bảo vệ là một bộ phận hợp thành của xây dựng. Càng xây dựng tốt bao nhiêu, càng có điều kiện bảo vệ tốt bấy nhiêu. Xây dựng chính là tự bảo vệ; ngược lại bảo vệ tốt lại tạo điều kiện để xây dựng tốt. Một nấc thang của xây dựng gắn chặt với một nấc thang của bảo vệ; một nấc thang của bảo vệ lại tạo ra một thành quả của xây dựng, vì bảo vệ trong tiến trình xây dựng.

Để giải quyết tốt mối quan hệ này điều quan trọng là phải chăm lo xây dựng mọi mặt của đất nước ngày càng mạnh, ngăn chặn, đẩy lùi, khắc phục các nguy cơ về chính trị, kinh tế, đặc biệt là các vấn đề xã hội bức xúc, tạo môi trường hòa bình và ổn định. Sự kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới của tình hình khu vực và thế giới, trước yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới được Đảng ta xác định trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế-xã hội và trên từng địa bàn. Đây là tư duy hết sức khoa học, thể hiện tính nhất quán chặt chẽ vừa xuyên suốt, vừa cụ thể trên cả hai mặt thời gian và không gian. Phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc một cách khoa học và cách mạng rằng, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh chỉ có thể thắng lợi khi mà quốc phòng-an ninh được giữ vững, môi trường hòa bình được bảo đảm, tình hình chính trị ổn định. Từng giờ, từng phút, các thế lực thù địch tìm mọi cách chống phá chúng ta, không muốn cho chúng ta được sống trong hòa bình. Vì vậy phải quan tâm đúng mức, luôn luôn nêu cao cảnh giác đập tan mọi âm mưu và hành động chống phá của kẻ thù. Chỉ có như vậy thì mới có điều kiện để xây dựng đất nước. Bên cạnh đó, phải thấy rằng, chỉ khi kinh tế phát triển nhanh, bền vững, các lĩnh vực xã hội được bảo đảm thì nền độc lập của chúng ta mới được giữ vững. Những quan điểm chỉ muốn làm giàu về kinh tế bằng mọi giá, không quan tâm đến quốc phòng an ninh, bảo vệ Tổ quốc, cần phải được lên án mạnh mẽ.


Trong những năm tới, “nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp” . Hơn bao giờ hết chúng ta càng phải thực hiện tốt đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược Xây dựng và bảo vệ tổ quốc không bao giờ được lơ là hoặc tách rời hai nhiệm vụ chiến lược này./.

Coi trọng và củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt

Đại hội XII của Đảng xác định: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta, tạo cơ sở quan trọng cho Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị, toàn dân và toàn quân ta xác định và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh theo chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới có tầm quan trọng đặc biệt, là quan hệ cơ bản, chi phối, thẩm thấu vào các mối quan hệ khác; được giải quyết trong sự gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ: phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.

Khẳng định trong giai đoạn hiện nay, cách mạng Việt Nam đang trong thời kỳ hoà bình ổn định và phát triển, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Song các thế lực thù địch vẫn đang tìm mọi cách chống phá hòng đưa nước ta chệch khỏi quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình đó chúng ta càng phải kiên trì con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn, đó là con đường đưa dân tộc ta đến với độc lập tự do và sẽ tiếp tục đưa dân tộc ta đến tương lai tươi sáng hơn. Hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam hiện nay là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Cần quán triệt và thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng ta: trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chủ trương đó trong xây dựng và bảo vệ đất nước phải biết lựa chọn đúng những khâu trọng tâm đột phá, lựa chọn hình thức, bước đi và cách làm phù hợp nhằm mục tiêu ổn định và phát triển đất nước bền vững vì sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi quan điểm, tư tưởng sai trái, mọi sự xuyên tạc đường lối của Đảng của các thế lực thù địch muốn phủ nhận vai trò của Đảng, phủ nhận thành quả và công lao vĩ đại của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cũng như trong giai đoạn hiện nay. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của kẻ địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối đổi mới, bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.


Là lực lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt cho toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta phải không ngừng xây dựng Quân đội ta ngày càng vững mạnh theo hướng: “cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Trong quá trình xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt cần lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hoá” quân đội của các thế lực thù địch. Thường xuyên coi trọng công tác huấn luyện và xây dựng chính qui của các đơn vị và toàn quân, để nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trước mọi tình huống, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cần đẩy mạnh công tác xây dựng nền quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân, phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, tạo ra sức mạnh và tiềm lực mọi mặt ngày càng to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Quan điểm của Đảng ta về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Quan điểm lý luận về kết hợp xây dựng với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam của Đảng ta được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI là xuất phát từ việc nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh quy luật xây dựng đi đôi với bảo vệ Tổ quốc. Kê thừa phát triển và nâng lên một trình độ mới quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước trong quá trình tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận từ thực tiễn nhận thức và tổ chức triển khai công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX). Đồng thời, còn xuất phát từ bổi cảnh tình hình thế giới, khu vực, trong nước và yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới.

Kết hợp xây dựng với bảo vệ Tổ quốc thể hiện ở chỗ, lấy xây dựng để bảo vệ, xây dựng cũng là một phương thức hữu hiệu để bảo vệ, trong xây dựng có bảo vệ, trong bảo vệ có xây dựng. Xây dựng đất nước vững mạnh, kinh tế phát triển bên vững, đời sống của các tầng lớp nhân dân ngày càng nâng cao, tình hình chính trị xã hội ổn định... là tạo điều kiện vững chắc cho bảo vệ Tổ quốc. Khắc phục, đầy lùi nguy cơ tụt hậu về kinh tế là tạo điều kiện vững chắc cho bảo vệ. Bảo vệ tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng. Tăng cường quốc phòng, an ninh là trực tiếp nhằm giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia, tạo sức mạnh cần thiết để ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, cũng là tạo điều kiện cho đất nước sự phát triển bền vững.

Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, ừật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng. Coi trọng nhiệm vụ phát triển kinh tế, không có nghĩa coi nhẹ nhiệm vụ củng cố, tăng cường QP-AN, xác định bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu thường xuyên” không có nghĩa là không tập trung cho nhiệm vụ phát triển kinh tế.

Chúng ta phải kiên quyết đấu tranh khắc phục những biểu hiện nhận thức chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, thậm chí cả những nhận thức chưa đúng về kết hợp xây dựng với bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, cần quan tâm đến những biểu hiện nhận thức tách rời giữa xây dựng với bảo vệ, bảo vệ với xây dựng, tuyệt đối hóa mặt xây dựng và xem nhẹ, không quan tâm đầy đủ đến mặt bảo vệ, ngược lại, tuyệt đối mặt bảo vệ mà không quan tâm đầy đủ đến mặt xây dựng, từ đó dẫn tới những lệch lạc trong xác định chủ trương, phương hướng, kế hoạch và cả trong tổ chức chỉ đạo thực tiễn làm suy giảm sức mạnh của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.


Vạch trần luận điệu xuyên tạc đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Trên trang mạng xã hội hiện nay có quan điểm cho rằng” Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước tập trung nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội”

Chúng ta kịch liệt phản đối quan điểm nhìn nhận phiến diện trên.Quan điểm nhất quán của Đảng và nhà nước ta” Xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam” Được đưa vào trong các văn kiện Đại hội Đảng; Đó là mối quan hệ cơ bản, mang tính chiến lược, chi phối mọi lĩnh vực của sự phát triển đất nước;

Xây dựng và bảo vệ gắn bó chặt chẽ với nhau, có xây dựng mới bảo vệ được, có bảo vệ mới xây dựng được; trong đó, xây dựng là nền tảng, là cơ sở cho bảo vệ, xây dựng là “phương thức hữu hiệu nhất” để thực thi bảo vệ. Vì vậy, xây dựng đất nước mạnh lên, khắc phục triệt để những hạn chế, yếu kém, sự suy thoái, chệch hướng, tụt hậu là tạo điều kiện vững chắc nhất cho bảo vệ, đó cũng chính là bảo vệ trong xây dựng.Thông qua xây dựng CNXH tạo điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật cho bảo vệ QP- AN, mua sắm trang bị cho Quân đội VKTBKT. Nghĩa là tăng cường tiềm lực QP-AN. Lực lượng xây dựng cũng là lực lượng bảo vệ. Đồng thời, bảo vệ là điều kiện bảo đảm cho xây dựng đúng định hướng và phát triển một cách vững chắc, là cơ sở để giữ vững thành quả cách mạng, tạo ra môi trường hào bình, ổn định, thống nhất để xây dựng, trong bảo vệ có xây dựng, bảo vệ gắn chặt với quá trình xây dựng

Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang đẩy mạnh  âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” , bạo loạn lật đổ nhằm chống phá Đảng, nhà nước và chế độ XHCN, phá hoại thành quả cách mạng đất nước ta đạt được trong thời kỳ đổi mới.


Vì vậy, cần tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Chúng ta cần tập trung vào đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” và quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội . Coi đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc - Từ lịch sử đến tương lai

Lịch sử dân tộc việt Nam tồn tại và phát triển luôn gắn liền với xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Qua hàng ngàn năm cho đến nay bài học dựng nước và giữ nước vẫn còn nguyên giá trị, nó được chứng minh rõ nét nhất ở thời đại Hồ chí Minh và trong lãnh đạo vận dụng sáng tạo công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước của Đảng, nhà nước và dân dân ta đó là hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ chặt chẽ không tách rời nhau. Ta thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, gồm cả xây dựng kinh tế, chính trị (Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân) văn hóa, xã hội, đặc biệt là xây dựng con người mới. Trong nội dung xây dựng có cả bảo vệ Tổ quốc và là một cách tự bảo vệ có hiệu quả nhất. Bởi vì chỉ có dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thì đất nước mới đứng vững được trước mọi sự chống phá điên cuồng của kẻ thù. Bảo vệ Tổ quốc là quan điểm nhất quán, xuyên suốt trong sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đúc kết: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy tư duy sâu rộng của mối quan hệ chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là tư tưởng quân sự, quốc phòng, an ninh, kháng chiến, mà kháng chiến bao giờ cũng đi liền với kiến quốc. Xây dựng Đảng, Nhà nước chính là nhằm bảo vệ Đảng và Nhà nước, bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Đảng, Nhà nước là phải tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nhà nước. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn nhận thức rõ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN; điều này thể hiện rất rõ trong các văn kiện của Đảng, nhất là Văn kiện Đại hội VIII, IX, X, XI; bảo vệ không chỉ là phòng ngừa mà trước hết phải chăm lo xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt, nhất là phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu về kinh tế; đi đôi với xây dựng phải đấu tranh phòng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta tiếp tục chỉ rõ vấn đề: “Kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước”. Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 – 2006) đã phân tích sâu sắc sự phát triển nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN khi đặt vấn đề “trong điều kiện mới, cần có nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng trong khi khẳng định tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa , đặc biệt chú trọng xử lý tốt các mối quan hệ, trong đó có mối quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đây là một đòi hỏi tất yếu khách quan. Lãnh tụ V.I. Lênin chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”. Từ khi nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên xuất hiện cho đến nay, nhiệm vụ xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN luôn luôn được nhận thức, quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả.Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, cả nước đi lên CNXH và bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta càng ý thức sâu sắc sự gắn bó mật thiết giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”.Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa IX của Đảng ra Nghị quyết chuyên đề về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, tiếp tục khẳng định quan điểm kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh trong quá trình thực hiện các phương hướng để đạt được mục tiêu khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Trong định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Cương lĩnh chỉ rõ: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng an ninh. Phát triển kinh tế-xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng-an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng-an ninh, quốc phòng-an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế-xã hội và trên từng địa bàn”.Theo tinh thần Đại hội XI, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, tạo thành một thể thống nhất, “tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Bản chất của mối quan hệ này là sự gắn bó mật thiết giữa xây dựng và bảo vệ, trong xây dựng có bảo vệ, trong bảo vệ có xây dựng. Đảng ta đặt lên hàng đầu “sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh”, nhưng lại xác định “tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân”. Quan điểm này cần được hiểu, đời sống kinh tế-xã hội là gốc của quốc phòng-an ninh; xây dựng kinh tế-xã hội là một phương thức hữu hiệu để bảo vệ Tổ quốc. Gốc này có vững chắc thì quốc phòng-an ninh mới vững. Xây dựng chính là tự bảo vệ; ngược lại bảo vệ tốt lại tạo điều kiện để xây dựng tốt. Một nấc thang của xây dựng gắn chặt với một nấc thang của bảo vệ; một nấc thang của bảo vệ lại tạo ra một thành quả của xây dựng, vì bảo vệ trong tiến trình xây dựng.Mối quan hệ chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ còn được thể hiện ở lực lượng xây dựng cũng là lực lượng bảo vệ và lực lượng bảo vệ cũng là lực lượng xây dựng, tức là toàn dân, toàn quân, cả hệ thống chính trị. Xây dựng không chỉ là việc riêng của kinh tế-xã hội, của dân sự mà cũng là câu chuyện của quốc phòng-an ninh. Củng cố quốc phòng-an ninh không phải chỉ là việc riêng của quốc phòng, của bảo vệ mà còn nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội, theo yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội.


Sự kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới của tình hình khu vực và thế giới, trước yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới được Đảng ta xác định trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế-xã hội và trên từng địa bàn. Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược. Đại hội XII của đảng cũng xác định xây dựng và bảo vệ tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược xong nó được cụ thể hóa vận dụng sát hơn với tình hình hiện tại của đất nước. Đây là tư duy mới của Đảng, bảo vệ Tổ quốc là sự kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh không chỉ trên lĩnh vực phát triển kinh tế mà còn cả trên lĩnh vực văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh tại các địa bàn chiến lược.

Hai nhiệm vụ chiến lược của Cách mạng Việt Nam

Đại hội VII của Đảng năm 1991 đã xác định: "Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Quan điểm về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của Đảng có ý nghĩa quan trọng, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Xét về mặt lý luận và thực tiễn, chúng ta thấy đây không phải là chủ trương hoàn toàn mới của Đảng, chủ trương này đã được nêu trong nhiều văn kiện, nghị quyết, chỉ thị quan trọng của Đảng qua các kỳ đại hội. Đồng thời, quan điểm đó cũng bắt nguồn từ tư tưởng nhất quán lâu đời của Tổ tiên ta: Dựng nước phải đi đôi với giữ nước; đã được thực tiễn lịch sử dân tộc kiểm nghiệm, khẳng định qua hàng nghìn năm và trở thành quy luật trường tồn, phát triển của dân tộc ta.
Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có xu hướng xâm nhập, tác động, quy định lẫn nhau. Muốn bảo vệ đất nước an toàn, ổn định, không đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa thì phải xây dựng sao cho các yếu tố của chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng chiếm địa vị thống trị trong đời sống xã hội, luôn thể hiện rõ tính chất ưu việt, vượt trội. Nghĩa là phải làm cho các lĩnh vực của đời sống, xã hội của xã hội chủ nghĩa thể hiện tính ưu việt, hiệu quả hơn so với xã hội tư bản chủ nghĩa. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa phải trong sạch, vững mạnh, có dân chủ và kỷ cương hơn chế độ tư bản; chế độ một Đảng Cộng sản lãnh đạo ưu việt hơn chế độ đa đảng. Văn hóa xã hội chủ nghĩa cao hơn so với văn hóa tư sản. Điều đó đặt ra sự cần thiết phải nhận thức đúng và giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình phức tạp hiện nay.

Hiện nay, chúng ta đang phải hàng ngày, hàng giờ đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong do tác động của “diễn biến hòa bình” và cả những “ung nhọt” nảy sinh trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, của thời kỳ quá độ dưới sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập, của toàn cầu hóa, sự phát triển mạnh mẽ và vượt bậc của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, sự du nhập của các luồng văn hóa đan xen, ồ ạt, mạnh mẽ hơn bao giờ. Vì vậy, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN diễn ra một cách phổ biến và thường xuyên, liên tục, làm cho các quá trình đan xen vào nhau, trở thành lẽ sinh tồn, lẽ sống của mọi người Việt Nam dù ở bất cứ nơi đâu cũng hướng trái tim về Tổ quốc, góp sức mình vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa với lòng tự hào và đầy nhiệt tâm.


Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong giai đoạn hiện nay không chỉ thể hiện trong cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mà còn phải được thể hiện trong các chiến lược, các kế hoạch xây dựng và phát triển đất nước của các cấp, các ngành vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Giao lưu biên giới là điểm sáng trong quan hệ Quốc phòng Việt Nam - Trung Quốc

"Giao lưu hữu nghị Quốc phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc" với nhiều hoạt động mang ý nghĩa thiết thực, Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa quan trọng góp phần thúc đẩy, tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc.
         
Như các đồng chí đã biết, trong năm 2017, mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc có những bước phát triển rất đáng phấn khởi. Đầu năm nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao của Đảng, Nhà nước Việt Nam thăm Trung Quốc. Trong dịp này, hai Bộ Quốc phòng đã ký một văn bản hết sức quan trọng, có thể nói là văn bản mang tính lịch sử, đó là “Tầm nhìn chiến lược quốc phòng Việt Nam - Trung Quốc năm 2017”.
         
Mới đây, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã thăm chính thức Trung Quốc. Và theo như dự kiến, cuối năm nay, Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ sang thăm Việt Nam và dự Hội nghị APEC. Rõ ràng là, với nhịp độ các nhà lãnh đạo thăm nhau như vậy, với những tuyên bố chung mà chúng ta được biết, có thể nói, bối cảnh chung trong quan hệ hai nước đang rất tốt đẹp. Cần nhấn mạnh rằng, trong tất cả những chuyến thăm này hay trong những tuyên bố chung cũng như nội dung hội đàm giữa lãnh đạo cấp cao, thì hợp tác quốc phòng luôn luôn được đặt ở vị trí rất quan trọng, được coi là trụ cột nhằm tăng cường sự tin cậy, sự hiểu biết lẫn nhau, từng bước giải quyết những vấn đề còn tồn đọng giữa hai nước, đặc biệt là vấn đề Biển Đông.
         
Sau 3 năm tổ chức, chương trình “Giao lưu hữu nghị Quốc phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc”: Kết quả lớn nhất chúng ta đạt được, đó là ý thức, là sự phát triển nhận thức của cả hai bên, của cả cấp cao, cấp các đơn vị, quân khu, quân chủng và cấp địa phương. Nhận thức về ý nghĩa đoàn kết, hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc quan trọng vô cùng đối với cả hai nước trên mọi phương diện, mọi cấp độ. Chúng ta tin rằng, Việt Nam và Trung Quốc cần phải đoàn kết, hữu nghị để cùng phát triển.
         
Cùng với đó, qua giao lưu biên giới hằng năm, mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị của các đơn vị, các địa phương ở giáp biên giới đã có nhiều thay đổi rõ nét. Từ nhận thức đúng thì hành động đúng, cho nên mọi vấn đề của hai bên biên giới, kể cả thuận lợi hay khó khăn, chúng ta đều có các kênh để chia sẻ và giải quyết rất gọn gàng, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng độc lập chủ quyền, tôn trọng chủ quyền quốc gia, tôn trọng lợi ích của mỗi bên và cũng tôn trọng mối quan hệ giữa hai nước.
         
Bên cạnh đó “Giao lưu hữu nghị Quốc phòng biên giới” chúng ta có thể thấy, sự quan tâm không chỉ người dân biên giới mà nhân dân của cả hai nước với giao lưu này. Từ đó, nhân dân hai nước đều rất ủng hộ, thấy đây là một kết quả rất to lớn. Như tôi nhận định, khi người dân đã nói rằng, hai bên phải đoàn kết hữu nghị, thì Chính phủ, lãnh đạo của cả hai bên phải tuân thủ ý chí của nhân dân. Đây là ý chí rất mạnh mẽ của nhân dân hai nước mà chúng ta nhận thức được trong thời gian vừa qua.
         
Ngày 18/9/2017, gần hai năm kể từ ngày lực lượng BĐBP Việt Nam và Cục Quản lý Biên phòng, Bộ Công an Trung Quốc cùng phối hợp trong hoạt động giao lưu, hợp tác công tác chính trị. Thông qua các hoạt động này, đã có nhiều mô hình ý nghĩa được triển khai trong sinh hoạt chính trị và xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh, góp phần khẳng định công tác Đảng, công tác chính trị chính là nguồn sức mạnh quan trọng để hai lực lượng ngày càng hiểu biết lẫn nhau, giúp đỡ hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, cùng nhau xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.
         
Gần đây nhất là thực hiện thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước Việt Nam - Trung Quốc, đồng chí Lưu Vân Sơn, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc thăm và làm việc tại Việt Nam từ ngày 18 đến 19/9/2017.
         

Cùng ngày, đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, thành viên Thường trực Ban Bí thư đã có cuộc hội đàm với đồng chí Lưu Vân Sơn. Trong bầu không khí thẳng thắn, chân thành, hữu nghị, hai bên đã thông tin cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước; đánh giá toàn diện về những kết quả đạt được và những vấn đề tồn tại trong quan hệ Việt-Trung thời gian qua; Về vấn đề trên biển, đồng chí Trần Quốc Vượng đề nghị hai bên nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định trên Biển Đông; tránh các hành động làm phức tạp tình hình; giải quyết vấn đề Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tuân thủ những nhận thức chung và thỏa thuật đã đạt được, nhất là Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc; thực hiện nghiêm túc Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), sớm cùng ASEAN xây dựng Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC), vì hòa bình, ổn định ở khu vực và lợi ích chung của cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc./. 

Không thể tách dời hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ mối quan hệ "giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" là một "mối quan hệ lớn" cần giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các mối quan hệ lớn, trong đó nhấn mạnh mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa".

    Nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là thể hiện sự trung thành và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm chắc quy luật và đặc điểm dân tộc, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. Thực chất mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng chính là biểu hiện của tiến trình thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Việc nhận thức, cụ thể hóa và xử lý đúng quy luật này là yêu cầu có tính sống còn của sự phát triển đất nước, của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong tất cả các giai đoạn. Trong đó:

Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta được xác định là một sự nghiệp vĩ đại, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị nhằm tạo ra một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.

Bảo vệ Tổ quốc XHCN là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và bảo vệ chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; không để đất nước bị động, bất ngờ. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay là bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên CNXH, cũng là bảo vệ một chế độ XHCN đang tronh quá trình xây dựng, hình thành và phát triển.

 Xây dựng và bảo vệ gắn bó chặt chẽ với nhau, có xây dựng mới bảo vệ được, có bảo vệ mới xây dựng được; trong đó, xây dựng là nền tảng, là cơ sở cho bảo vệ, xây dựng đồng thời là phương thức hữu hiệu để thực thi bảo vệ. Trong xây dựng đã bao hàm cả nội dung bảo vệ và trong bảo vệ đã chứa đựng nội dung của xây dựng. Vì vậy, xây dựng đất nước mạnh lên, khắc phục triệt để những hạn chế, yếu kém, sự suy thoái, chệch hướng, tụt hậu là tạo điều kiện vững chắc nhất cho bảo vệ, đó cũng chính là bảo vệ trong xây dựng.

Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang phải hàng ngày, hàng giờ đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong do tác động của “diễn biến hòa bình” và cả những “ung nhọt” nảy sinh trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, của thời kỳ quá độ dưới sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập, của toàn cầu hóa, sự phát triển mạnh mẽ và vượt bậc của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, sự du nhập của các luồng văn hóa đan xen, ồ ạt, mạnh mẽ hơn bao giờ. Vì vậy, hoạt động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN diễn ra một cách phổ biến và thường xuyên, liên tục, làm cho các quá trình đan xen vào nhau, trở thành lẽ sinh tồn, lẽ sống của mọi người Việt Nam dù ở bất cứ nơi đâu cũng hướng trái tim về Tổ quốc, góp sức mình vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa với lòng tự hào và đầy nhiệt tâm.


Mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc

Việc xác định Phương châm 16 chữ vàng, khiến quan hệ hai đảng, hai nước Trung Việt đã thu được tiến triển quan trọng mới. Hai nước đã lần lượt lý hiệp ước biên giới trên bộ, Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ và hiệp định hớp tác ngư nghiệp. Hai đảng, hai nước Trung Việt đã triển khai cuộc giao lưu kinh nghiệm quản lý đảng, quản lý đất nước một cách sâu rộng, sự hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước đã bước lên thềm cao mới, sự giao lưu hữu nghị giữa nhân dân hai nước, nhất là giữa thanh niên hai nước cũng đã tiến ra một bước có nghĩa sâu xa.

Thực hiện Phương châm 16 chữ vàng, trong những năm qua lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước liên tục có các chuyến thăm quan trọng, nhằm không ngừng vun đắp, đưa quan hệ hữu nghị đặc biệt đồng chí anh em lên tầm cao mới, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân hai nước.

Tiếp tục các chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Lý Bằng, tháng 11-1992 và tháng 6-1996, của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân, tháng 11-1994 và tháng 3-2002, của Chủ tịch Quốc hội Kiều Thạch, tháng 11-1996, của Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ, tháng 12-1999, của Thủ tướng Ôn Gia Bảo, tháng 10-2004, chuyến thăm Việt Nam lần này của Hồ Cẩm Đào từ ngày 31/10 đến 2/11 năm 2005  là chuyến thăm cấp cao nhất, với cương vị đầy đủ nhất- Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch quân uỷ Trung ương, kể từ Đại hội XVI Đảng Cộng sản Trung Quố năm 2002 đến nay. Đây thực sự là chuyến thăm lịch sử, là bước ngoặt, tiếp tục thúc đẩy quan hệ ngoại giao giữa hai Đảng, là biểu hiện của tình đoàn kết hữu nghị thuỷ chung, đồng chí anh em, được chứng minh bằng những thành tựu mà nhân dân hai nước đã giành được trong 55 năm qua, đồng thời khẳng định trước sau như một đường lối đối ngoại mà lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước đã khẳng định trong các chuyến thăm cấp cao giữa hai bên từ khi bình thường hoá quan hệ năm 1991 đến nay.

Đảng và Nhà nước hai bên có quyền tự hào trước những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực hợp tác, đặc biệt là trên lĩnh vực phát triển kinh tế dựa trên 16 chữ. Đến nay, quan hệ kinh tế thương mại giữa hai bên đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Đây là biểu hiện sinh động, Kết quả to lớn của tình đoàn kết anh em theo Phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt. Quan hệ kinh tế và thương mại hai nước có những bước tiến triển quan trọng sau chuyến thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc của Chủ tịch nước Trần Đức Lương tháng 7-2005. Với tổng giá trị các hợp đồng và thoả thuận giữa các doanh nghiệp lên hơn 1,9 tỷ USD, trong đó lớn nhất thuộc về ngành thép trị giá hơn 500 triệu USD. Ngoài ra là các thoả thuận hợp tác trong ngành than, điện tử - viễn thông, du lịch….

Đến năm 2005, trong số 44 Hiệp định và thỏa thuận cấp Nhà nước đã ký kết có đến hơn một nửa liên quan trực tiếp đến hợp tác kinh tế thương mại. Việt Nam và Trung Quốc đã ký hơn 20 văn bản thoả thuận, trong đó có các Hiệp định tạo hành lang pháp lý cơ bản cho quan hệ thương mại hai nước như: Hiệp định Thương mại, Hiệp định Mua bán vùng biên giới, Hiệp định về Thành lập Uỷ ban hợp tác Kinh tế và Thương mại, Hiệp định Hợp tác kinh tế, Hiệp định Thanh toán, các Hiệp định về Giao thông đường sắt, đường bộ, đường hàng không. Từ ngày 1-1-2004, Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế xuất nhập khẩu theo "Chương trình thu hoạch sớm" (EH) được ký kết giữa ASEAN và Trung Quốc nhằm sớm đi đến hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc. Các Hiệp định này được ký kết cùng với các cặp cửa khẩu được khai thông trên tuyến biên giới Việt-Trung đã tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các ngành, các địa phương biên giới, doanh nghiệp hai nước tiến hành hợp tác kinh tế và trao đổi hàng hoá, mở ra một thời kỳ mới cho giao lưu kinh tế qua biên giới Việt-Trung.

Năm 1991, kim ngạch buôn bán hai chiều Việt-Trung chỉ đạt 30 triệu USD thì đến năm 2001 đã đạt 3,04 tỷ USD; Năm 2002 đạt 3,26 tỷ USD; Năm 2003, đạt 4,87 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu trên 1,7 tỷ USD, nhập khẩu 3,12 tỷ USD. Năm 2004, kim ngạch buôn bán giữa hai nước đã đạt trên 7,19 tỷ USD; 7 tháng đầu năm 2005 đạt 4,134 tỷ USD, tăng 10,26% so với cùng kỳ năm 2004, trong đó Việt Nam xuất sang Trung Quốc đạt giá trị 1,435 tỷ USD (giảm 6,86%) với các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là dầu thô, hàng nông sản, thủy hải sản, khoáng sản, lâm sản, hàng dệt may, giày dép, hàng điện tử…giá trị xuất khẩu của Trung Quốc vào thị trường Việt Nam đạt 2,698 tỷ USD.

Đến năm 2005, Trung Quốc là nước xếp thứ nhất trong số các nước xuất khẩu hàng hóa sang Việt Nam và đứng thứ 3 trong số các nước nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc là: dầu thô, cao su, dầu thực vật, gỗ tròn, gỗ xẻ, gỗ dán, quặng sắt, chất dẻo, hải sản, rau xanh, hoa quả. Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc các mặt hàng: Xe máy CKD và IKD, máy móc, thiết bị, phụ tùng, phân bón, sắt thép các loại….

Đến năm 2005, Trung Quốc đứng thứ 14 trong tổng số 62 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Trung Quốc có 346 dự án đang còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký 710,4 triệu USD. Đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực xây dựng, dịch vụ và chế tạo. Các dự án đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đã tạo ra hơn 53.000 việc làm và có tổng doanh thu hơn 1 tỷ USD. Tiêu biểu như dự án Pouchen (tại Đồng Nai) sản xuất giày, có kim ngạch xuất khẩu mỗi năm khoảng 70 triệu USD, hay dự án Pouchen (tại Thành phố Hồ Chí Minh) sản xuất giày thể thao, có kim ngạch xuất khẩu mỗi năm khoảng 40 triệu USD. Trung Quốc đã đầu tư tại 39 tỉnh, thành phố của Việt Nam, trong đó khoảng 50% số vốn đăng ký tại Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai. Chỉ tính riêng 7 tháng đầu năm 2005, số dự án đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đã tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoài.

Về kinh tế, thương mại, qua chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào cuối năm 2005, hai nước đã ký kết 14 hiệp định và thoả thuận với tổng số vốn 1,2 tỷ USD. Trong tương lai, hai nước sẽ thảo luận các biện pháp nhằm nâng kim ngạch thương mại song phương đạt ngưỡng 10 tỷ USD trước năm 2010 và phấn đấu hoàn thành việc phân định và cắm mốc biên giới trước năm 2008. Ngoài ra, trong chuyến thăm này, hai nước đã ra ba tuyên bố và năm thông cáo chung được coi là những văn kiện chính trị quan trọng đặt nền tảng cho việc nâng cấp quan hệ trong mọi lĩnh vực

Ngày 22/8/2006, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã đi thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc, theo lời mời của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Hồ Cẩm Đào, chuyến đi thăm nước ngoài đầu tiên của đồng chí Nông Đức Mạnh sau khi được tái cử vào vị trí Tổng Bí thư thể hiện sự phát triển quan hệ song phương được mô tả trong 4 khía cạnh:

Thứ nhất, lãnh đạo 2 Đảng và 2 nước Việt - Trung luôn duy trì mối quan hệ gần gũi thông qua những cuộc trao đổi các chuyến viếng thăm cấp cao, không ngừng đưa mối quan hệ đó theo hướng phát triển mới.

Thứ hai, mối quan hệ thương mại và kinh tế hai phía luôn bước lên những nấc thang mới. Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn của Việt Nam từ năm 2004. Năm ngoái, trao đổi thương mại Việt - Trung đạt 8 tỷ USD. Vào khoảng cuối năm nay, 2 nước nhắm tới mục tiêu đưa con số đó lên 10 tỷ USD, vượt kế hoạch đã định là đến năm 2010. Những dự án hợp tác lớn cũng đã có tiến triển lớn với dự án đèn tín hiệu tàu hỏa và xây dựng 3 nhà máy nhiệt điện với tổng số đầu tư hơn 1,1 tỷ USD. Trong những năm gần đây, 2 nước cũng đang đàm phán về dự án hợp tác kinh tế diện rộng với mức đầu tư của Trung Quốc cỡ 3 tỷ USD. Đó chính là điểm sáng trong quan hệ kinh tế 2 nước.

Thứ ba, vấn đề về lãnh thổ và mốc biên giới Việt - Trung cũng đã dần dần đạt được trên tinh thần đồng thuận, thiết lập và bảo đảm sự ổn định lâu dài trong mối quan hệ song phương.
Thứ tư, Trung Quốc và Việt Nam đã nhiều lần cùng chia sẻ kinh nghiệm lý thuyết và thực tiễn về xã hội chủ nghĩa. 2 nước đã từng tổ chức 4 hội thảo về nghiên cứu chủ nghĩa xã hội, trong đó đã thiết lập được sự hợp tác và đối thoại về các vấn đề như ngoại giao, quốc phòng để có nền tảng phát triển bền vững, hữu nghị.

Năm 2009, mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa Hải Nam với Việt Nam là bộ phận không thể thiếu trong mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện theo Phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt mà lãnh đạo cấp cao Trung Quốc - Việt Nam đã xác định. Hội thảo Hợp tác kinh tế - Thương mại Hải Nam - Việt Nam 2009, được tổ chức sáng 09/7/2009 tại Hà Nội, các doanh nghiệp hai bên đã ký kết 18 thỏa thuận với tổng giá trị 318 triệu USD

Việt Nam đã được Đảng và nhân dân Trung Hoa giúp đỡ chí tình và đầy hiệu quả. Tuy là nước đang phát triển, Trung Quốc đã cung cấp một số khoản ODA cho Việt Nam bao gồm viện trợ không hoàn lại và tín dụng ưu đãi. Đến tháng 9-2004, Chính phủ Trung Quốc đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 210 triệu NDT và 18,418 triệu USD, nhằm hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp trang thiết bị cho các dự án y tế, tiếp nhận các đoàn Việt Nam sang trao đổi kinh nghiệm. Hai bên cũng đang triển khai một số dự án lớn dựa trên nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của phía Trung Quốc như dự án "Cung văn hóa hữu nghị Việt-Trung" với khoản viện trợ không hoàn lại trị giá 150 triệu NDT; "Khu ký túc xá học viên 15 tầng" của học viện Chính trị quốc gia .

Một loạt các dự án lớn đang được Việt Nam triển khai trên cơ sở nguồn vốn vay ưu đãi của Chính phủ Trung Quốc như: Nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn (710 triệu USD); Dự án đường sắt đô thị Hà Nội-Hà Đông (340 triệu USD); Dự án "Nâng cấp hệ thống thông tin tín hiệu 3 tuyến đường sắt phía Bắc và khu đầu mối Hà Nội" (64 triệu USD); Dự án "Hiện đại hóa thông tin tín hiệu đường sắt Vinh-TP Hồ Chí Minh" (62 triệu USD) và nhiều dự án khác….

Lĩnh vực Văn hoá-Giáo dục cũng đã có sự hợp tác đầy hiệu quả giữa hai nước. Trong gần 15 năm qua kể từ năm 2005, Việt Nam đã cử hơn 100 đoàn đại biểu văn hóa trên các lĩnh vực báo chí, âm nhạc, điện ảnh, kịch, truyền hình sang Trung Quốc khảo sát, biểu diễn. Hàng năm hai bên đều cử lưu học sinh sang học với số lượng tương đối lớn. Theo hiệp định, mỗi năm Chính phủ Trung Quốc cấp 130 suất học bổng cho phía Việt Nam; đồng thời Việt Nam cung cấp 15 suất học bổng cho phía Trung Quốc. Ngoài kênh Chính phủ, còn có nhiều học sinh đi học tự túc. Hiện đã có hơn 20 trường đại học của Việt Nam có quan hệ giao lưu, hợp tác với hơn 40 trường đại học và học viện của Trung Quốc. Đến năm 2003, Việt Nam đã có 3.487 người nhận được học bổng của phía Trung Quốc. Trung Quốc đã trở thành một trong những nước mà người Việt Nam sang học đông nhất..

Hợp tác khoa học kỹ thuật giữa hai nước cũng không ngừng phát triển, hai bên đã ký kết nhiều hiệp định hợp tác; bao gồm hợp tác khoa học kỹ thuật nông nghiệp, xây dựng khu vườn nông nghiệp khoa học kỹ thuật cao, lai tạo các loại rau và hoa quả chất lượng cao, bảo vệ môi trường, hợp tác nghiên cứu sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên....

Đặc biệt, hai Đảng thường xuyên trao đổi kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng. Nhiều đảng bộ của tỉnh, thành phố và cơ quan tham mưu ở Trung ương của hai Đảng thường xuyên học tập, trao đổi Kinh nghiệm về công tác Đảng. Đặc biệt, giới lý luận hai nước đã lần lượt tiến hành nhiều cuộc hội thảo lý luận về kinh nghiệm phát triển đất nước, xây dựng CNXH và xây dựng Đảng. Từ năm 2002 đến nay, hai bên đã lần lượt tổ chức các hội thảo về nguyên nhân và bài học kinh nghiệm từ sự tan rã của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu (năm 2002), về Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường-kinh nghiệm của Trung Quốc, kinh nghiệm của Việt Nam (tháng 10-2003), về xây dựng đảng cầm quyền (tháng 2-2004).

Sự hợp tác giữa 2 nước trên Phương châm 16 chữ vàng hoàn toàn phù hợp lợi ích lâu dài của hai nước và nguyện vọng của nhân dân hai nước Trung Việt, đặt cơ sở vững chắc cho việc phát triển sâu sắc quan hệ hữu nghị láng giềng và hợp tác toàn diện giữa hai nước

Tình hữu nghị Trung Việt là của cải quý báu của hai đảng, hai nước và nhân dân hai nước. Nhà lãnh đạo hai nước nhiều lần nhấn mạnh, trong thế kỷ mới phải lấy Phương châm 16 chữ vànglàm chỉ đạo, không ngừng phong phú, tăng cường và sâu sắc nội hàm của nó, đưa quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống Trung Việt lên trình độ phát triển cao hơn./.

Đảng ta luôn đặt hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam- Xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược, sống còn

Trong lịch sử của dân tộc, từ rất sớm, cha ông ta đã nhận thức được mối quan hệ biện chứng, gắn bó giữa dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Đó chính là tư tưởng, là quy luật tồn tại và phát triển của Dân tộc Việt Nam.

Kế thừa và phát huy bài học lịch sử của dân tộc từ đại hội VI đến Đại hội XII, Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước trong lịch sử dân tộc đã chuyển thành quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn chặt với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Vận dụng quy luật này, Đảng ta xác định: cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
         
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng đi đôi với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã trở thành tư tưởng, mục tiêu nhất quán và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam.
         
Hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc có mối quan hệ chặt chẽ gắn bó mật thiết với nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Bảo vệ vững chắc Tổ quốc mới tạo ra môi trường hòa bình, ổn định để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Xây dựng đất nước giàu mạnh, kinh tế - xã hội phát triển mới tạo ra được tiềm lực và sức mạnh vật chất, tinh thần để xây dựng, củng cố và phát triển nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, có đủ sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
         

Quan điểm về bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta khẳng định trong Đại hội XII là sự trung thành, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới và từ tư duy, phát triển lý luận đến tổng kết thực tiễn của Đảng, nhất là 30 năm đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc vừa qua. Đây là cơ sở, nền tảng quan trọng để Đảng, Nhà nước và nhân dân ta triển khai, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc mà Đại hội XII của Đảng đã đề ra.

Luận điệu xuyên tạc mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc của các thế lực thù địch

Lợi dụng một số vấn đề còn bất đồng, tranh chấp về chủ quyền biển đảo giữa ta và Trung Quốc trên biển Đông, Phạm Trần đã cố tình xuyên tạc cho rằng chúng ta quá lệ thuộc vào Trung Quốc. Sự thật mà Phạm Trần cố tình lờ đi, đó là giữa ta và Trung Quốc hai bên đã ký kết “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc” (2011), làm cơ sở cho việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Theo đó, hai bên nhất trí kiên trì giải quyết hòa bình vấn đề Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và tinh thần DOC. Trên cơ sở thỏa thuận này, hai bên đã thành lập cơ chế đàm phán cấp chuyên viên về khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và cơ chế đàm phán cấp chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Đến nay, sau các vòng đàm phán, hai bên đã đạt một số kết quả gồm, nhất trí thành lập Tổ chuyên gia kỹ thuật khảo sát chung phục vụ công tác phân định và hợp tác cùng phát triển tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ; nhất trí chọn ra 03 dự án trong lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển để nghiên cứu và triển khai thí điểm, gồm: Dự án về hợp tác trao đổi, nghiên cứu về quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc, Dự án về nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang và Dự án về phối hợp tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong quá trình tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, hai bên đã thành lập và đưa vào hoạt động Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển trong khuôn khổ Đoàn đàm phán cấp Chính phủ về Biên giới lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc (2013) nhằm nghiên cứu và bàn bạc về các giải pháp mang tính quá độ, không ảnh hưởng lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm vấn đề hợp tác cùng phát triển”. Tuy nhiên, giải quyết việc tranh chấp trên biển là vấn đề lịch sử, phức tạp, lâu dài khi xem xét cần phải kiên trì, bản lĩnh, tỉnh táo, tránh nóng vội chủ quan. Hai bên đã nhất trí giải quyết trên tinh thần nhìn từ tầm cao chiến lược, vì lợi ích của nhân dân hai nước, phù hợp với luật pháp quốc tế và quan hệ hữu nghị, truyền thống, không để ảnh hưởng đến sự phát triển, ổn định của mối quan hệ hai nước.

Tóm lại, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch là phiến diện, thiếu khách quan, không có cơ sở, cố tình xuyên tạc mối quan hệ Việt – Trung và đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ cũng như quan điểm về giải quyết mâu thuẫn, bất đồng trên biển Đông của Đảng và Nhà Nước ta hiện nay. Do vậy, chúng ta cần hết sức cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc của chúng./.

Thành tựu nổi bật trong mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trên các lĩnh vực: Chính trị, Ngoại giao, Quốc phòng

Trung Quốc và Việt Nam là láng giềng quan trọng và đối tác hợp tác của nhau, đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản lãnh đạo, lại cùng đang tiến hành cải cách mở cửa, đổi mới và hội nhập quốc tế. Những năm gần đây, hai Đảng, hai nước, nhân dân hai nước tổ chức nhiều hoạt động trao đổi, giao lưu nhằm củng cố tình hữu nghị truyền thống, mở rộng hợp tác giao lưu giữa nhân dân, không ngừng đạt được những thành quả to lớn trong vệc thúc đẩy quan hệ Việt-Trung. Để có kết quả này phần nào dựa trên cơ sở thúc đẩy hợp tác trao đổi trên kênh chính trị, làm sâu sắc hơn sự tin cậy lẫn nhau giữa hai Đảng, hai nước Việt Nam-Trung Quốc.
    
Từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, về tổng thể quan hệ giữa Việt Nam-Trung Quốc khôi phục nhanh, phát triển mạnh. Năm 2008, hai nước thiết lập quan hệ  “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”. Tiếp xúc cấp cao được duy trì với nhiều hình thức, góp phần tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác tạo điều kiện để hai bên từng bước giải quyết tranh chấp, bất đồng. Hai nước đã ký nhiều hiệp định và văn kiện hợp tác, đặt cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác lâu dài.
      
Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc tiến những bước dài với những hoạt động ngoại giao nhân dân, các cuộc gặp gỡ giữa các ban, ngành, các bộ…với nội dung trao đổi hợp tác đa diện, nhiều chiều, nhiều tầng lớp. Điểm đặc biệt trong quan hệ Việt Nam-Trung Quốc là hai nước không ngừng mở rộng không gian hợp tác thông qua kênh đa phương, thông qua các tổ chức quốc tế cũng như khu vực.
     
Một trong những bằng chứng nổi bật về thành tựu trong quan hệ chính trị-ngoại giao Việt Nam-Trung Quốc là hai nước đã giải quyết được hai trong ba vấn đề  bất đồng quan trọng liên quan đến biên giới-lãnh thổ; Ký kết Hiệp định biên giới trên đất liền vào năm 1999 và đã hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên đất liền (năm 2008); ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc bộ (năm 2000); ký Hiệp định Hợp tác nghề cá ở Vịnh bắc bộ (năm 2004).     
     
Hợp tác giữa hai Đảng được đẩy mạnh. Hai bên duy trì trao đổi và thiết lập cơ chế hợp tác giao lưu giữa các Ban Đảng; tổ chức 10 cuộc hội thảo về lý luận giữa hai Đảng. Thành lập cơ chế Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương (2006) để điều phối tổng thể các mặt hợp tác trong quan hệ hai nước. Quan hệ giữa các ngành quan trọng như ngoại giao, an ninh, quốc phòng được đẩy mạnh, hai bên tiếp tục triển khai hiệu quả các thỏa thuận văn bản hợp tác giữa hai Bộ ngoại giao, hai Bộ Công an, hai Bộ Quốc phòng.
    
Trong năm 2017, mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc có những  bước phát triển rất đáng phần khởi, hai bộ Quốc phòng đã ký một văn bản hết sức quan trọng, có thể nói là văn bản mang tính lịch sử, đó là “Tầm nhìn chiến lược quốc phòng Việt Nam-Trung Quốc năm 2017”.
     
Có thể nói, bối cảnh chung trong quan hệ hai nước đang rất tốt đẹp, trong tất cả những tuyên bố chung cũng như nội dung hội đàm giữa lãnh đạo cấp cao, thì hợp tác quốc phòng luôn luôn được đặt ở vị trí rất quan trọng, được coi là trụ cột nhằm tăng cường sự tin cậy, sự hiểu biết lẫn nhau, từng bước giải quyết những vấn đề còn tồn đọng giữa hai nước, đặc biệt là vấn đề Biển Đông.
     

Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, hai bên nhận thức rõ những cơ hội, thách thức chung cũng như đối với mỗi nước và cùng thống nhất việc tăng cường hơn nữa sự tin cậy chiến lược, hợp tác chặt chẽ toàn diện; xử lý các vấn đề còn tồn tại và mới nảy sinh giữa hai nước thỏa đáng, phù hợp với lợi ích căn bản, lâu dài của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước có lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở mỗi nước cũng như hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới. Với ý nghĩa đó, sự hợp tác có hiệu quả giữa QĐND Việt Nam và Quân Giải Phóng Nhân dân Trung Quốc đã, đang và sẽ là một trong những trụ cột quan trọng trong việc thúc đẩy và tăng cường quan hệ hữu nghị giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước./. 

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...