Việc xác định
Phương châm 16 chữ vàng, khiến quan hệ hai đảng, hai nước Trung Việt đã thu
được tiến triển quan trọng mới. Hai nước đã lần lượt lý hiệp ước biên giới trên
bộ, Hiệp
định Phân định Vịnh Bắc Bộ và hiệp định hớp
tác ngư nghiệp. Hai đảng, hai nước Trung Việt đã triển khai cuộc giao lưu kinh
nghiệm quản lý đảng, quản lý đất nước một cách sâu rộng, sự hợp tác kinh tế
thương mại giữa hai nước đã bước lên thềm cao mới, sự giao lưu hữu nghị giữa
nhân dân hai nước, nhất là giữa thanh niên hai nước cũng đã tiến ra một bước có
nghĩa sâu xa.
Thực hiện
Phương châm 16 chữ vàng, trong những năm qua lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà
nước liên tục có các chuyến thăm quan trọng, nhằm không ngừng vun đắp, đưa quan
hệ hữu nghị đặc biệt đồng chí anh em lên tầm cao mới, đáp ứng lòng mong mỏi của
nhân dân hai nước.
Tiếp tục các chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Lý
Bằng, tháng 11-1992 và tháng 6-1996, của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Giang
Trạch Dân, tháng 11-1994 và tháng 3-2002, của Chủ tịch Quốc hội Kiều Thạch,
tháng 11-1996, của Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ, tháng 12-1999, của Thủ
tướng Ôn Gia Bảo, tháng 10-2004, chuyến thăm Việt Nam lần này của Hồ Cẩm Đào từ
ngày 31/10 đến 2/11 năm 2005 là chuyến thăm cấp cao nhất, với cương
vị đầy đủ nhất- Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch quân uỷ Trung ương, kể từ Đại hội XVI Đảng
Cộng sản Trung Quố năm 2002 đến nay. Đây thực sự là chuyến thăm lịch sử,
là bước ngoặt, tiếp tục thúc đẩy quan hệ ngoại giao giữa hai Đảng, là biểu hiện
của tình đoàn kết hữu nghị thuỷ chung, đồng chí anh em, được chứng minh bằng
những thành tựu mà nhân dân hai nước đã giành được trong 55 năm qua, đồng thời
khẳng định trước sau như một đường lối đối ngoại mà lãnh đạo cấp cao hai Đảng,
hai Nhà nước đã khẳng định trong các chuyến thăm cấp cao giữa hai bên từ khi
bình thường hoá quan hệ năm 1991 đến nay.
Đảng và Nhà nước hai bên có quyền tự hào trước những thành tựu
to lớn trên nhiều lĩnh vực hợp tác, đặc biệt là trên lĩnh vực phát triển kinh
tế dựa trên 16 chữ. Đến nay, quan hệ kinh tế thương mại giữa hai bên đã có
những bước phát triển mạnh mẽ. Đây là biểu hiện sinh động, Kết quả to lớn của
tình đoàn kết anh em theo Phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt. Quan hệ
kinh tế và thương mại hai nước có những bước tiến triển quan trọng sau chuyến
thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc của Chủ tịch nước Trần Đức Lương tháng
7-2005. Với tổng giá trị các hợp đồng và thoả thuận giữa các doanh nghiệp lên
hơn 1,9 tỷ USD, trong đó lớn nhất thuộc về ngành thép trị giá hơn 500 triệu
USD. Ngoài ra là các thoả thuận hợp tác trong ngành than, điện tử - viễn thông,
du lịch….
Đến năm 2005, trong số 44 Hiệp định và thỏa thuận cấp Nhà nước
đã ký kết có đến hơn một nửa liên quan trực tiếp đến hợp tác kinh tế thương
mại. Việt Nam và Trung Quốc đã ký hơn 20 văn bản thoả thuận, trong đó có các
Hiệp định tạo hành lang pháp lý cơ bản cho quan hệ thương mại hai nước như:
Hiệp định Thương mại, Hiệp định Mua bán vùng biên giới, Hiệp định về Thành lập
Uỷ ban hợp tác Kinh tế và Thương mại, Hiệp định Hợp tác kinh tế, Hiệp định
Thanh toán, các Hiệp định về Giao thông đường sắt, đường bộ, đường hàng không.
Từ ngày 1-1-2004, Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế xuất
nhập khẩu theo "Chương trình thu hoạch sớm" (EH) được ký kết giữa
ASEAN và Trung Quốc nhằm sớm đi đến hình thành khu vực mậu dịch tự do
ASEAN-Trung Quốc. Các Hiệp định này được ký kết cùng với các cặp cửa khẩu được
khai thông trên tuyến biên giới Việt-Trung đã tạo cơ sở pháp lý và điều kiện
thuận lợi cho các ngành, các địa phương biên giới, doanh nghiệp hai nước tiến
hành hợp tác kinh tế và trao đổi hàng hoá, mở ra một thời kỳ mới cho giao lưu
kinh tế qua biên giới Việt-Trung.
Năm 1991, kim ngạch buôn bán hai chiều Việt-Trung chỉ đạt 30
triệu USD thì đến năm 2001 đã đạt 3,04 tỷ USD; Năm 2002 đạt 3,26 tỷ USD; Năm
2003, đạt 4,87 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu trên 1,7 tỷ USD, nhập khẩu
3,12 tỷ USD. Năm 2004, kim ngạch buôn bán giữa hai nước đã đạt trên 7,19 tỷ
USD; 7 tháng đầu năm 2005 đạt 4,134 tỷ USD, tăng 10,26% so với cùng kỳ năm
2004, trong đó Việt Nam xuất sang Trung Quốc đạt giá trị 1,435 tỷ USD (giảm
6,86%) với các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là dầu thô, hàng nông sản, thủy hải
sản, khoáng sản, lâm sản, hàng dệt may, giày dép, hàng điện tử…giá trị xuất
khẩu của Trung Quốc vào thị trường Việt Nam đạt 2,698 tỷ USD.
Đến năm 2005, Trung Quốc là nước xếp thứ nhất trong số các nước
xuất khẩu hàng hóa sang Việt Nam và đứng thứ 3 trong số các nước nhập khẩu hàng
hoá của Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc là: dầu
thô, cao su, dầu thực vật, gỗ tròn, gỗ xẻ, gỗ dán, quặng sắt, chất dẻo, hải
sản, rau xanh, hoa quả. Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc các mặt hàng: Xe máy
CKD và IKD, máy móc, thiết bị, phụ tùng, phân bón, sắt thép các loại….
Đến năm 2005, Trung Quốc đứng thứ 14 trong tổng số 62 quốc gia
và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Trung Quốc có 346 dự án đang còn hiệu lực
với tổng số vốn đăng ký 710,4 triệu USD. Đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam chủ
yếu tập trung vào lĩnh vực xây dựng, dịch vụ và chế tạo. Các dự án đầu tư của
Trung Quốc vào Việt Nam đã tạo ra hơn 53.000 việc làm và có tổng doanh thu hơn
1 tỷ USD. Tiêu biểu như dự án Pouchen (tại Đồng Nai) sản xuất giày, có kim
ngạch xuất khẩu mỗi năm khoảng 70 triệu USD, hay dự án Pouchen (tại Thành phố
Hồ Chí Minh) sản xuất giày thể thao, có kim ngạch xuất khẩu mỗi năm khoảng 40
triệu USD. Trung Quốc đã đầu tư tại 39 tỉnh, thành phố của Việt Nam, trong đó
khoảng 50% số vốn đăng ký tại Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thành phố Hồ Chí
Minh và Đồng Nai. Chỉ tính riêng 7 tháng đầu năm 2005, số dự án đầu tư của
Trung Quốc vào Việt Nam đã tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoài.
Về kinh tế, thương mại, qua chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào
cuối năm 2005, hai nước đã ký kết 14 hiệp định và thoả thuận với tổng số vốn
1,2 tỷ USD. Trong tương lai, hai nước sẽ thảo luận các biện pháp nhằm nâng kim
ngạch thương mại song phương đạt ngưỡng 10 tỷ USD trước năm 2010 và phấn đấu
hoàn thành việc phân định và cắm mốc biên giới trước năm 2008. Ngoài ra, trong
chuyến thăm này, hai nước đã ra ba tuyên bố và năm thông cáo chung được coi là
những văn kiện chính trị quan trọng đặt nền tảng cho việc nâng cấp quan hệ
trong mọi lĩnh vực
Ngày 22/8/2006, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã đi thăm hữu nghị
chính thức Trung Quốc, theo lời mời của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc,
Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Hồ Cẩm Đào, chuyến đi thăm nước ngoài đầu tiên của
đồng chí Nông Đức Mạnh sau khi được tái cử vào vị trí Tổng Bí thư thể hiện sự
phát triển quan hệ song phương được mô tả trong 4 khía cạnh:
Thứ nhất, lãnh đạo 2 Đảng và 2 nước Việt - Trung luôn duy trì
mối quan hệ gần gũi thông qua những cuộc trao đổi các chuyến viếng thăm cấp
cao, không ngừng đưa mối quan hệ đó theo hướng phát triển mới.
Thứ hai, mối quan hệ thương mại và kinh tế hai phía luôn bước
lên những nấc thang mới. Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn của Việt Nam
từ năm 2004. Năm ngoái, trao đổi thương mại Việt - Trung đạt 8 tỷ USD. Vào
khoảng cuối năm nay, 2 nước nhắm tới mục tiêu đưa con số đó lên 10 tỷ USD, vượt
kế hoạch đã định là đến năm 2010. Những dự án hợp tác lớn cũng đã có tiến triển
lớn với dự án đèn tín hiệu tàu hỏa và xây dựng 3 nhà máy nhiệt điện với tổng số
đầu tư hơn 1,1 tỷ USD. Trong những năm gần đây, 2 nước cũng đang đàm phán về dự
án hợp tác kinh tế diện rộng với mức đầu tư của Trung Quốc cỡ 3 tỷ USD. Đó
chính là điểm sáng trong quan hệ kinh tế 2 nước.
Thứ ba, vấn đề về lãnh thổ và mốc biên giới Việt - Trung cũng đã
dần dần đạt được trên tinh thần đồng thuận, thiết lập và bảo đảm sự ổn định lâu
dài trong mối quan hệ song phương.
Thứ tư, Trung Quốc và Việt Nam đã nhiều lần cùng chia sẻ kinh
nghiệm lý thuyết và thực tiễn về xã hội chủ nghĩa. 2 nước đã từng tổ chức 4 hội
thảo về nghiên cứu chủ nghĩa xã hội, trong đó đã thiết lập được sự hợp tác và
đối thoại về các vấn đề như ngoại giao, quốc phòng để có nền tảng phát triển
bền vững, hữu nghị.
Năm 2009, mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa Hải Nam với Việt Nam
là bộ phận không thể thiếu trong mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn
diện theo Phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt mà lãnh đạo cấp cao Trung
Quốc - Việt Nam đã xác định. Hội thảo Hợp tác kinh tế - Thương mại Hải Nam -
Việt Nam 2009, được tổ chức sáng 09/7/2009 tại Hà Nội, các doanh nghiệp hai bên
đã ký kết 18 thỏa thuận với tổng giá trị 318 triệu USD
Việt Nam đã được Đảng và nhân dân Trung Hoa giúp đỡ chí tình và
đầy hiệu quả. Tuy là nước đang phát triển, Trung Quốc đã cung cấp một số khoản
ODA cho Việt Nam bao gồm viện trợ không hoàn lại và tín dụng ưu đãi. Đến tháng
9-2004, Chính phủ Trung Quốc đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 210 triệu
NDT và 18,418 triệu USD, nhằm hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp trang thiết bị cho các
dự án y tế, tiếp nhận các đoàn Việt Nam sang trao đổi kinh nghiệm. Hai bên cũng
đang triển khai một số dự án lớn dựa trên nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của
phía Trung Quốc như dự án "Cung văn hóa hữu nghị Việt-Trung" với
khoản viện trợ không hoàn lại trị giá 150 triệu NDT; "Khu ký túc xá học
viên 15 tầng" của học viện Chính trị quốc gia .
Một loạt các dự án lớn đang được Việt Nam triển khai trên cơ sở
nguồn vốn vay ưu đãi của Chính phủ Trung Quốc như: Nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn
(710 triệu USD); Dự án đường sắt đô thị Hà Nội-Hà Đông (340 triệu USD); Dự án
"Nâng cấp hệ thống thông tin tín hiệu 3 tuyến đường sắt phía Bắc và khu
đầu mối Hà Nội" (64 triệu USD); Dự án "Hiện đại hóa thông tin tín
hiệu đường sắt Vinh-TP Hồ Chí Minh" (62 triệu USD) và nhiều dự án khác….
Lĩnh vực Văn hoá-Giáo dục cũng đã có sự hợp tác đầy hiệu quả
giữa hai nước. Trong gần 15 năm qua kể từ năm 2005, Việt Nam đã cử hơn 100 đoàn
đại biểu văn hóa trên các lĩnh vực báo chí, âm nhạc, điện ảnh, kịch, truyền
hình sang Trung Quốc khảo sát, biểu diễn. Hàng năm hai bên đều cử lưu học sinh
sang học với số lượng tương đối lớn. Theo hiệp định, mỗi năm Chính phủ Trung
Quốc cấp 130 suất học bổng cho phía Việt Nam; đồng thời Việt Nam cung cấp 15
suất học bổng cho phía Trung Quốc. Ngoài kênh Chính phủ, còn có nhiều học sinh
đi học tự túc. Hiện đã có hơn 20 trường đại học của Việt Nam có quan hệ giao
lưu, hợp tác với hơn 40 trường đại học và học viện của Trung Quốc. Đến năm
2003, Việt Nam đã có 3.487 người nhận được học bổng của phía Trung Quốc. Trung
Quốc đã trở thành một trong những nước mà người Việt Nam sang học đông nhất..
Hợp tác khoa học kỹ thuật giữa hai nước cũng không ngừng phát
triển, hai bên đã ký kết nhiều hiệp định hợp tác; bao gồm hợp tác khoa học kỹ
thuật nông nghiệp, xây dựng khu vườn nông nghiệp khoa học kỹ thuật cao, lai tạo
các loại rau và hoa quả chất lượng cao, bảo vệ môi trường, hợp tác nghiên cứu
sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên....
Đặc biệt, hai Đảng thường xuyên trao đổi kinh nghiệm về công tác
xây dựng Đảng. Nhiều đảng bộ của tỉnh, thành phố và cơ quan tham mưu ở Trung
ương của hai Đảng thường xuyên học tập, trao đổi Kinh nghiệm về công tác Đảng.
Đặc biệt, giới lý luận hai nước đã lần lượt tiến hành nhiều cuộc hội thảo lý
luận về kinh nghiệm phát triển đất nước, xây dựng CNXH và xây dựng Đảng. Từ năm
2002 đến nay, hai bên đã lần lượt tổ chức các hội thảo về nguyên nhân và bài
học kinh nghiệm từ sự tan rã của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu (năm 2002), về
Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường-kinh nghiệm của
Trung Quốc, kinh nghiệm của Việt Nam (tháng 10-2003), về xây dựng đảng cầm quyền
(tháng 2-2004).
Sự hợp tác giữa
2 nước trên Phương châm 16 chữ vàng hoàn toàn phù hợp lợi ích lâu dài của hai
nước và nguyện vọng của nhân dân hai nước Trung Việt, đặt cơ sở vững chắc cho
việc phát triển sâu sắc quan hệ hữu nghị láng giềng và hợp tác toàn diện giữa
hai nước
Tình hữu nghị
Trung Việt là của cải quý báu của hai đảng, hai nước và nhân dân hai nước. Nhà
lãnh đạo hai nước nhiều lần nhấn mạnh, trong thế kỷ mới phải lấy Phương châm 16
chữ vànglàm chỉ đạo, không ngừng phong phú, tăng cường và sâu sắc nội hàm của
nó, đưa quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống Trung Việt lên trình độ phát
triển cao hơn./.