Hơn 30 năm thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại, hội
nhập kinh tế quốc tế, nước ta đã đạt được những kết quả:
Một là, phá thế bao vây,
cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Việc tham gia ký Hiệp định Pari (ngày
23-10-1991) về một giải pháp toàn diện cho vấn đề Campuchia, đã mở ra tiền đề
để Việt Nam thúc đẩy quan hệ với khu vực và cộng đồng quốc tế. Việt Nam đã bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc (ngày 10-11-1991); tháng 11-1992 Chính phủ
Nhật Bản quyết định nối lại viên trợ ODA cho Việt Nam; bình thường hóa quan hệ
với Hoa Kỳ (ngày 11-7-1995). Tháng 7-1995 Việt Nam ra nhập ASEAN, đánh dấu sự
hội nhập của nước ta với khu vực Đông Nam Á.
Hai là, giải quyết hoà bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển
đảo với các nước liên quan.Đàm phán thành công với Malaixia về giải pháp “gác
tranh chấp, cùng khai thác” ở vùng biển chồng lấn giữa hai nước. Thu hẹp diện
tranh chấp vùng biển giữa ta và các nước ASEAN. Đã ký với Trung Quốc. Hiệp ước
về phân định biên giới trên bộ, Hiệp định phân Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác
về nghề cá.
Ba là, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa
dạng hoá.Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có quan hệ chính thức với tất cả
các nước lớn, kể cả 5 nước Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc;
tất cả các nước lớn đều coi trọng vai trò của Việt Nam ở Đông Nam Á. Đã ký Hiệp
định khung về hợp tác với EU (năm 1995); năm 1999 ký thoả thuận với Trung Quốc
khung khổ quan hệ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác tòan diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai”; tháng 5-2008 thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược
toàn diện Việt Nam – Trung Quốc; ngày 13-7-2001, ký kết Hiệp định thương mại
song phương Việt Nam – Hoa Kỳ; tuyên bố về quan hệ đối tác tin cậy và ổn định
lâu dài với Nhật bản (năm 2002). Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 203
nước trong tổng số hơn 200 nước trên thế giới. Tháng 10-2007, Đại Hội đồng Liên
hợp quốc đã bầu Việt Nam làm uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ
2008-2009.
Bốn là, tham gia các tổ chức quốc tế. Năm 1993, Việt Nam khai
thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như: Quỹ tiền tệ quốc
tế (IMF), Ngân hàng thê giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); sau khi
gia nhập ASEAN (tháng 7-1995) Việt Nam đã tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA); tháng 3-1996, tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế Á - Âu (ASEM) với tư
cách là thành viên sáng lập; tháng 11-1998, gia nhập tổ chức Diễn đàn hợp tác
kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); ngày 11-1-2007, Việt Nam được kết nạp
là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Năm là, thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiêp thu
khoa học công nghệ và kỹ năng quản lý.Về mở rộng thị trường: Nước ta đã tạo
dựng được quan hệ kinh tế thương mại với trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ,
trong đó có 74 nước áp dụng qui chế tối huệ quốc; thiết lập và ký kết hiệp định
thương mại hai chiều với gần 90 nước và vùng lãnh thổ.
Sáu là, từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền
kinh tế vào môi trường cạnh tranh. Trong quá trình hội nhập, nhiều doanh nghiệp
đã đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, không
ngừng vươn lên trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Tư duy làm ăn mới,
láy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm thước đo và đội ngũ các doanh nghiệp mới
năng động, sáng tạo, có kiến thức quản lý đang hình thành. Những kết quả trên
đây có ý nghĩa rất quan trọng: đã tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài kết
hợp với các nguồn lực trong nước hình thành sức mạnh tổng hợp, góp phần đưa đến
những thành tựu to lớn. Góp phần giữ vững và củng cố độc lập, tự chủ, định
hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc;
nâng cao vị thế và phát huy vai trò nước ta trên trường quốc tế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét