Trước yêu cầu mới của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn đề quản lý, sử dụng đất quốc phòng đặt
ra vừa cấp thiết, vừa có tính chiến lược lâu dài. Đảng, Nhà nước đã có nhiều
chủ trương, biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất quốc phòng, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Đất
quốc phòng là một phần quỹ đất của quốc gia, được Nhà nước giao cho Bộ Quốc
phòng quản lý, sử dụng vào mục đích: xây dựng nơi đóng quân, làm căn cứ quân
sự, công trình phòng thủ quốc gia, trận địa, bãi tập, kho tàng, nhà máy, bệnh
viện... và các công trình quốc phòng khác. Do yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc,
đất quốc phòng được phân bố trải rộng trên địa bàn cả nước, từ thành thị đến
nông thôn, từ vùng núi, biên giới đến vùng biển, đảo, nhất là trên các địa bàn
chiến lược trọng điểm cả về kinh tế-xã hội (KT-XH) và quốc phòng-an ninh
(QP-AN), nên vấn đề quản lý, sử dụng đất quốc phòng luôn được sự quan tâm của
các bộ, ngành, địa phương và nhân dân, nhất là những địa phương mà trên địa bàn
có đơn vị bộ đội đứng chân.
Luật
Đất đai qua các thời kỳ và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, vấn đề
quản lý, sử dụng đất quốc phòng được xác định rõ: Chính phủ quy định việc lập,
xét duyệt, điều chỉnh thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vào mục đích
quốc phòng; Bộ Quốc phòng có trách nhiệm lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
vào mục đích quốc phòng trình Chính phủ xét duyệt. Theo đó, từ năm 1994, việc
lập quy hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phòng đã được triển khai thực hiện
nghiêm túc, có hiệu quả. Bộ Quốc phòng đã ban hành Chỉ thị số 846/CT-QP, ngày
12-12-1994 về tổ chức rà soát, quy hoạch đất quốc phòng do quân đội quản lý, sử
dụng trên
địa bàn cả nước, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch đất quốc phòng do
quân đội quản lý, sử dụng trên địa bàn 8 quân khu và Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên
phòng. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, không những tạo điều kiện để việc sử
dụng đất đai vào mục đích quốc phòng được ổn định, lâu dài, bảo đảm yêu cầu
phòng thủ, bảo vệ đất nước, mà còn thúc đẩy việc sử dụng diện tích đất do quân
đội quản lý hợp lý, hiệu quả hơn; đồng thời, góp phần vào phát triển KT-XH, xây
dựng đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Trong quá trình thực hiện, Bộ
Quốc phòng đã thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài nguyên và Môi trường
cùng các bộ, ngành liên quan để kịp thời giải quyết những vướng mắc, bất cập
nảy sinh, đảm bảo phù hợp với sự phát triển của tình hình thực tiễn. Thông qua
quy hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, các quân khu, quân chủng, binh
chủng, quân đoàn và từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã phối hợp và
tiến hành điều chỉnh cho phù hợp. Trong đó, không ít đơn vị quân đội, do nhu
cầu bức thiết về thao trường, bãi tập..., đã được các tỉnh, thành phố chuyển
một số diện tích đất do địa phương quản lý sang sử dụng cho mục đích quốc
phòng; cùng với đó, một số lớn diện tích đất do quân đội trực tiếp quản lý đã
được chuyển cho các địa phương và các bộ, ngành để phục vụ nhu cầu phát
triển KT-XH. Nhìn chung công tác quy hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phòng
thời gian qua đã được thực hiện đúng quy trình, quy định của pháp luật về đất
đai, đáp ứng được yêu cầu đất đai cho quy hoạch xây dựng các công trình phòng
thủ quốc gia, như: hệ thống kho tàng, thao trường, bãi tập, căn cứ, nơi đóng
quân, nhất là hệ thống đường tuần tra biên giới, đường quốc phòng ven biển, vừa
đảm bảo tốt yêu cầu phòng thủ quốc gia, sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ), bảo vệ Tổ
quốc, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của đất nước.
Tuy
vậy, thực tiễn quản lý, sử dụng đất quốc phòng trong thời gian qua cũng còn một
số hạn chế, bất cập; nhất là việc phân định ranh giới, xác định số liệu thống
kê chưa rõ ràng, chính xác, dẫn tới sự tranh chấp giữa một số đơn vị với địa
phương nơi đóng quân, thậm chí có những tranh chấp kéo dài nhiều năm nhưng chưa
giải quyết dứt điểm, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về đất quốc
phòng. Mặt khác, việc quy hoạch sử dụng đất quốc phòng đã tiến hành nhiều năm,
nhưng chưa được điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với quy hoạch tổng thể phát
triển KT-XH của đất nước, của địa phương trong từng thời kỳ, dẫn đến một số
nơi, quỹ đất cần thiết dành cho thao trường, bãi tập phục vụ huấn luyện, SSCĐ
của một số đơn vị chưa được địa phương sở tại quan tâm đúng mức; ngược lại, ở
một số khu vực, chưa nhất thiết phải bổ sung quỹ đất cho mục đích quốc phòng,
nhưng vẫn được bố trí, gây lãng phí về quỹ đất. Điều đó đã làm ảnh hưởng đáng
kể tới nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ của quân đội và phát triển KT-XH của các địa
phương.
Xây
dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta. Trong Cương lĩnh, đường lối của mình, Đảng ta luôn xác
định: xây dựng, phát triển KT-XH là nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng hàng đầu;
đồng thời, tăng cường QP-AN, bảo vệ vững chắc Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược
trọng yếu, không thể xem nhẹ. Thời gian tới, để tiếp tục nâng cao hiệu quả quản
lý, sử dụng đất đai cho mục đích quốc phòng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự,
quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, cần phải tiếp
tục rà soát nắm chắc hiện trạng và nhu cầu sử dụng đất, nâng cao chất lượng
công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp và quy hoạch sử dụng đất quốc
phòng để quản lý có hiệu quả. Đồng
thời tăng cường hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng đất đai vào mục
đích quốc phòng để bảo đảm tính đồng bộ trong thực thi pháp luật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét